Câu Hỏi Tình Yêu

“Chúc các bạn một buổi sáng tốt lành,” Terry Wogan nói, giọng anh ta mượt mà như bia đen Guinness[1]. “Giờ là tám giờ kém mười, và nếu bạn vừa mở đài, nhiệt liệt chào mừng đến với chương trình.”

[1] Được làm hoàn toàn từ loại lúa mạch rang. Đây là loại bia khá phổ biến ở Anh và Ireland. (ND)

“Cám ơn,” tôi lẩm bẩm khi mở tủ quần áo nhỏ bằng gỗ dái ngựa của Nick và xem xét quần áo của anh với một trái tim trĩu xuống. Bên trái là những chiếc áo vét - hai cái bằng vải len, ba cái bằng vải lanh và vài cái quần mặc thường ngày. Bên phải là mười đến mười hai chiếc áo sơ mi. Tôi lướt tay qua chúng, rồi khổ sở tưởng tượng trong phút chốc, ngực Nick làm chúng căng phồng lên, sau đó tôi dừng lại ở chiếc áo lụa màu xanh sẫm tay ngắn. Nó là một trong những chiếc áo yêu thích của anh, với họa tiết những con cá nhiệt đới nhưng giờ đã phai màu. Anh mặc nó trong kỳ nghỉ cuối cùng của chúng tôi, bốn năm trước.

“Bây giờ,” Wogan tiếp tục theo cách vui vẻ của mình. “Đây là một bài hát tôi luôn yêu thích...” Tôi nghe tiếng đầu đĩa mở và rùng mình. “... Đúng khi em cần anh nhất’.”

Tôi kéo áo sơ mi của Nick ra và áp mặt vào nó. Khi tôi hít vào hương vị nam tính hòa lẫn hương vị thoang thoảng của biển, tôi nhớ ra anh đã mặc nó ở Crete. Anh đang đứng ở ban công khách sạn, khuôn mặt sáng bừng nụ cười, ly rượu vang Hy Lạp đưa lên cao như không có chút vướng bận gì.

Em nhớ anh nhiều hơn trước đây...

Thở chậm lại để trấn tĩnh thần kinh, tôi bắt tay vào làm việc.

Giờ em sẽ tìm nguồn an ủi ở đâu, Chúa mới biết...

Tôi nhấc những chiếc áo sơ mi ra, vắt chúng trên cánh tay, sau đó đưa xuống phòng ngủ dành cho khách. Bởi vì anh-h-h... đã rời bỏ em, đúng khi em cần anh nhất.

“Đúng thế, Nick ạ,” tôi thì thầm. “Anh đã làm thế.” Khi tôi mở chiếc thùng gỗ cũ của cha anh và đặt chúng vào bên trong, tôi tự hỏi những người đàn bà khác trong hoàn cảnh tôi có thể làm gì. Rất nhiều người đã mang quần áo của chồng đến Oxfam[2] từ lâu - nhưng tôi không thể. Theo cách nào đấy, việc đó dường như không đúng.

[2] Ủy ban cứu đói Oxford.

“Giờ...” tôi nghe Wogan nói khi trở lại phòng ngủ và nhấc áo vét của Nick ra khỏi giá treo. “Đây là một câu hỏi. Thực ra là một câu hỏi mẹo. Bạn có biết ngày hôm nay là ngày gì không?”

“Thứ Tư,” tôi trả lời, khi tôi đặt những bộ quần áo trên giường. “Ngày 9 tháng 2.” Bàn tay tôi hơi run khi cài khuy những chiếc áo vét.

“Hôm nay là ngày đầu tiên của Mùa chay.”

“Vậy ra là nó.”

“Một ngày mà, theo truyền thống, dành cho một chút hồi tưởng tĩnh lặng, và tất nhiên là một ngày để từ bỏ. Vậy tất cả các bạn đang từ bỏ cái gì trong Mùa chay nhỉ, ừm...?”

Tôi mang những chiếc áo vét của Nick vào phòng dành cho khách và đặt chúng vào trong hòm, cẩn thận gấp chúng lại giữa những trang báo.

“Sô-cô-la?” Tôi nghe Wogan hỏi khi đứng lên, lưng hơi nhoi nhói. Tôi liếc ra vườn. Tuyết đang rơi nhẹ. “Đó là một điều gay go hiện nay, đúng không? Hay có lẽ là một bữa say sưa túy lúy?” Tôi trở lại phòng ngủ, nhấc những chiếc áo mặc chui đầu ra khỏi ngăn tủ com-mốt, sau đó đặt cả chúng vào thùng. “Đồ ăn nhanh, có lẽ vậy? Hay kẹo...?”

Giờ tôi lấy giày của anh ra, sau đó cẩn thận nhấc những chiếc ca-vát ra khỏi giá treo. Tôi chạm nhẹ vào chiếc ca-vát bằng vải cashmere màu xanh lơ và vàng anh đã đeo trong hôn lễ của chúng tôi. Nó suýt nữa rơi xuống bởi một làn sóng hối tiếc dấy lên.

“Chửi thề?” Wogan kiên trì. “Hút thuốc? Đọc tạp chí OK! Và Hello! Nào, nào, mọi người - hãy dành cho nó vài suy nghĩ nghiêm chỉnh, được chứ? Tất cả chúng ta sẽ từ bỏ cái gì trong Mùa chay?”

Tôi nhìn vào tấm ảnh cưới phía trên giường, sau đó với lên và nhấc nó xuống. “Tôi đang từ bỏ cái gì? Thật dễ dàng. Quá khứ của tôi.”

***

Bạn phải cố gắng và vượt qua mọi thứ, không phải sao? Bạn phải đi tiếp, hay, đúng hơn là, ‘buông tay’ như họ nói trong những câu biệt ngữ phổ biến. Và vì vậy, sau rất lâu, tôi đã làm như thế. Tôi rốt cuộc đã thu dọn đồ đạc của Nick bởi vì tôi không muốn sống với một con ma thêm nữa. Mặc dù tôi biết đó là việc phải làm, tôi vẫn thấy có gì đó sai trái. Cứ như là bằng cách nào đó tôi đang chối bỏ rằng Nick từng tồn tại, hay chúng tôi đã có một cuộc sống chung sáu năm.

Điều khó khăn nhất lại là máy trả lời điện thoại. Trong ba năm tôi chưa hề thay đổi lời nhắn - tôi không thể buộc mình làm điều đó - nhưng bây giờ, sau cùng, tôi phải làm. Vì vậy, từ sáng nay, những người gọi tới sẽ không nghe thấy Nick lịch sự nói, Xin chào, chúng tôi xin lỗi vì không có ở đây... - điều đó thường dọa mọi người hết hồn. Giờ họ sẽ chỉ nghe thấy tôi, chỉ mình tôi. Chào, bạn đang gọi đến Laura...Tôi nói với vẻ vui vẻ bình bình, cứ như là tôi công nhận rằng anh đã ra đi.

Đây là điều chị em gái luôn giục giã tôi làm. “Thật không thể chịu đựng được!” chị gái tôi, Felicity, luôn thốt lên mỗi lần xuất hiện. “Em không thể tiếp tục như thế này, Laura! Căn hộ này là một lăng tẩm! Em phải chấp nhận chuyện đã xảy ra và tiến lên phía trước!” Em gái tôi, Hope, người kìm chế hơn, chỉ nói, “Nếu chị không sẵn sàng thay đổi, vậy thì... đừng.” Nhưng trong tháng Giêng, cuối cùng tôi quyết định rằng tôi đã sẵn sàng. Quyết tâm Năm Mới của tôi là trang trí lại căn hộ - điều đó sẽ tạo ra một cảm giác khác biệt hoàn toàn về nơi này - và cất đi mọi đồ đạc của Nick. Tôi không vứt bỏ đồ của anh - điều đó thật tàn nhẫn - tôi chỉ đơn giản giấu chúng đi. Vì vậy những bằng chứng bề ngoài về cuộc sống của anh ở đây đã biến mất. Máy vi tính, sách, ảnh và bây giờ là quần áo của anh, đã được xếp lại trong phòng ngủ trống dành cho khách, khuất khỏi tầm nhìn. Theo một cách nào đó, nó có cảm giác như một sự giải thoát, nhưng theo cách khác, lại giống như một sự phản bội. Nhưng, một cách lý trí, tôi biết không phải thế.

Tôi nhớ Nick. Và tôi vẫn thấy giận dữ với anh. Họ nói đó là một phản ứng thông thường - đặc biệt nếu bạn còn trẻ. Tất nhiên nó trở nên dễ dàng hơn, khi thời gian trôi đi. Tôi sẽ quen với nó - tôi phải thế - nhưng ngay cả bây giờ, tôi có thể vẫn choáng váng. Khi có một lá thư viết cho anh từ ai đó vẫn chưa biết chuyện, là một ví dụ, và tôi phải viết thư trả lời, giải thích. Và cách phản ứng của những người hàng xóm thỉnh thoảng có thể làm tôi tức tối. Sáng nay, là một ví dụ.

Tôi ra khỏi căn hộ lúc chín giờ ba mươi, trên đường đi làm. Lần đầu tiên trong nhiều năm tôi lại cảm thấy sung mãn và lạc quan, sẵn sàng tiến lên. Và tôi vừa khóa cửa trước khi nhìn thấy Bà French từ bên kia đường đang rời nhà với chiếc xe đẩy chở hàng đi đến Portobello. Vì vậy tôi mỉm cười với bà ấy, và bà ấy mỉm cười lại. Nhưng, như thường lệ, nụ cười bà ấy đượm vẻ thông cảm và tôi gần như nghe thấy tiếng ‘thôi mà-thôi mà’ cảm thông của bà ấy. Và tôi nhận ra rằng, khi tôi còn quanh quẩn ở đây, tôi vẫn là một đối tượng của sự thương hại và tò mò, việc tiến về phía trước rất khó. Còn Bà Singh ở nhà kế bên cũng như vậy. Bất cứ khi nào bà ấy nhìn thấy tôi, bà ấy tới gần, đặt bàn tay lên cánh tay tôi, và hỏi, rất dịu dàng, tôi có ‘ổn’ không. Và tôi luôn luôn trả lời, cố hết mức có thể để không ra vẻ phòng thủ, “Vâng, cám ơn. Tất nhiên. Bà khỏe chứ?” Tôi không thích thế, nhưng tôi không thể đổ lỗi cho họ bởi vì họ nhớ Nick, và đây là một con phố nhỏ nhiều chuyện. Vì vậy tôi trở thành ‘cô gái tội nghiệp ở nhà số 8’.

Đường Dunchurch bình dân ở tận cuối của Portobello, vừa hết đường Ladbrole Grove. Rất nhiều hàng xóm của tôi đã sống ở đây nhiều năm, và không phải tất cả bọn họ đều tốt bụng như Bà French và Bà Singh. Hai lần trong siêu thị địa phương nhỏ bé của chúng tôi, tôi nghe lỏm được người đàn bà có gương-mặt-chua-ngoa ở nhà số 12 đang nói với người quản lý bằng một giọng thì thầm và hống hách rằng, tôi phải đã ‘dồn anh ta đến việc đấy, chàng trai tội nghiệp’. Nhưng rồi, khi chuyện xảy ra, tôi biết sẽ có một số những giả thuyết khó chịu đang dấy lên xung quanh. Vài người đổ lỗi cho tôi - tôi không biết tại sao vì Nick và tôi đã sống rất hạnh phúc, cám ơn. Vài người khác nghĩ anh ấy đã rối trí vì sức ép của công việc. Quan điểm chung nhất là Nick chắc chắn đã tạo ra một tình trạng hỗn loạn tồi tệ như vậy chỉ vì anh ấy không thể hiểu được ý nghĩa cuộc sống của mình. Cho dù tình trạng hỗn loạn đấy là cái gì, khi không có những bằng chứng xác thực (và, tin tôi đi, tôi trông có vẻ lắm), đã gợi mở ra những phỏng đoán kinh hoàng nhất. Nhưng tôi cho rằng những tin đồn thổi là không thể tránh được, nhất là do nó đã xuất hiện trên báo bởi vì công việc của Nick. Do vậy, cách này hay cách khác, tôi có rất nhiều thứ phải đương đầu. Nhưng bây giờ, như tôi nói, tôi quyết tâm sống tiếp, và để giai đoạn buồn của cuộc đời này lại sau lưng.

Vì vậy, chưng hửng bởi cuộc chạm trán với bà French, tôi nghĩ đến vài điều tích cực để cải thiện tâm trạng. Khi tôi đi bộ đến Portobello - những bông tuyết ướt át xoay xoay và lơ lửng trước mặt - tôi ngẫm nghĩ rằng ít nhất công việc của tôi cũng đã cải thiện. Khi tôi đi qua những tiệm xăm và tiệm bán thịt theo đúng luật Hồi giáo[3], tôi nhắc mình nhớ rằng tình trạng tài chính của tôi từng khó khăn như thế nào. Không có tiền bảo hiểm chi trả cho những trường hợp như của tôi, và Nick đã biến công việc của anh thành một đống lộn xộn. Với đồng lương của một nhà nghiên cứu truyền hình, tôi một mình vật lộn để trả tiền thế chấp căn hộ, và trong tình thế của tôi, tôi đã không thể trang trải. Công ty Halifax gia hạn thanh toán cho tôi ba tháng. Gia đình tôi hỗ trợ, và sếp của tôi, Tom, đã tốt bụng tăng lương. Bây giờ, khi tôi đi qua những cửa hàng áo len hay áo sơ mi nhuộm thủ công rẻ tiền, mặc dù, tôi vẫn nhớ về những khoản nợ chồng chất lớn - nhưng sau đó tôi cũng nhớ mình đã tìm ra cách để giải quyết nhanh gọn tình trạng đó như thế nào.

[3] Thịt được sản xuất theo đúng luật Hồi Giáo là: Người giết súc vật phải giết nó khi còn đang sống và khi giết nó phải cầu nguyện nhân danh Chúa. Sau khi xẻ thịt súc vật phải rửa thịt cho sạch máu. (ND)

Tháng Ba vừa rồi, tôi đọc được một bài báo trên tờ The Times về một công ty biên soạn câu hỏi cho những quán rượu tên là InQuizitive. Nó nói rằng họ đang tìm kiếm những cộng tác viên biên soạn câu hỏi, phải là người có kiến thức rộng, và tôi đã liên lạc với họ. Tôi biết đó là việc mình có thể dễ dàng làm, ngoài việc kiếm được 2,5 bảng cho một câu hỏi - nó làm tôi sao nhãng khỏi tình trạng khốn khổ của mình. Các buổi tối sau khi đi làm về, tôi ngồi ôm những cuốn sách tham khảo, hoàn toàn tập trung để thảo ra những câu hỏi. ‘Ai là người thiết kế ô-tô chạy bằng xăng đầu tiên?” (Karl Benz). ‘Cái gì được lưu kho trong kho ngầm?’ (Gạo). “Có bao nhiêu ô vuông trên một bàn chơi Scrabble?’ (225). ‘Thủ đô của Ukraine là gì?’ (Kiev). Tôi thích việc này. Nó vừa thư giãn, nhưng cùng lúc lại cho tôi một khoảng thời gian nhộn nhịp. Và giờ, khi tôi rẽ trái sang Đường Westbourne Park, tôi nghĩ, như vẫn thường nghĩ, làm thế nào mà một bài báo đã thay đổi cuộc đời tôi đến vậy...

Vào một chiều thứ Sáu tháng Sáu vừa rồi, tôi ở trong ‘phòng họp’ nhỏ bé của công ty Trident TV với Tom, người sở hữu công ty, và Sara - một nhà nghiên cứu làm việc toàn thời gian khác. Chúng tôi là một công ty rất nhỏ - và chúng tôi đang quay cuồng quanh ý tưởng về chương trình mới cho các đài truyền hình.

“Mọi việc đang rất khó khăn, nhất là khía cạnh tiền bạc,” Tom bắt đầu, khi anh bật một sợi dây chun giữa ngón cái và ngón trỏ với vẻ hơi sao nhãng như mọi khi. Anh nhíu đôi mắt màu xanh, như đang rít vào một hơi thuốc lá mà thỉnh thoảng anh vẫn hút. “Vì vậy tôi nghĩ chúng ta có lẽ phải làm thứ gì đó hơi... thương mại hơn một chút,” anh tiếp tục với chút ghê tởm. Tôi đã làm việc cho Trident năm năm - ngay từ khi khởi đầu, khi nó chỉ là Tom và tôi - và chúng tôi đã làm vài chương trình khá nặng: ví dụ, hai loạt chương trình về chiến tranh thế giới thứ nhất cho Kênh History; một phim tài liệu về Helen thành Troy cho BBC II, một series bốn phần về đạo đức trong công nghệ sinh học, và một chương trình nửa tiếng về Tấm vải liệm của thành Turin. Chúng tôi cũng đã làm vài chương trình về doanh nghiệp, để thanh toán các hóa đơn, nhưng chúng tôi nổi tiếng về những chương trình thực tế.

“Được đề cử cho giải Baftas thật là tuyệt và tất cả những điều khác,” Tom tiếp tục. Anh ngả người ra sau và đan hai bàn tay sau đầu. “Nhưng bây giờ chúng ta thực sự cần một cái máy quay ra tiền.” Trái tim tôi chùng xuống. Tôi thích những chương trình có ý tưởng nghiêm túc đã làm. Tôi không bao giờ muốn làm những chương trình ăn xổi, hay những chương trình về cách sống ngớ ngẩn, hay đáp ứng những khẩu vị kém nhất của đại đa số công chúng. Tom chầm chậm quay chiếc ghế từ bên này sang bên khác. “Nào...?”

“Một máy quay ra tiền ư?” Tôi nhắc lại.

Anh nhăn nhó. “Phải - đặc biệt là để chúng ta có thể tân trang lại xung quanh đây một chút” - anh liếc nhìn sàn nhà, “Tấm thảm này chắc phải dành cho lối đi trên xe buýt. Vậy... có ý kiến nào cho thứ gì đó... phổ biến hơn một chút?” Anh nhìn tôi.

“À... ‘Những kiểu mẫu vợ nổi tiếng’...thì sao?” Tôi gợi ý. “Hay ‘Tân trang lại ngôi nhà nhỏ bé’? hay ‘Những căn nhà gỗ lộn xộn’ hoặc, hèm... ‘Tôi là một Con số không, Để tôi vào đây’?”

Tom bắn sợi dây chun vào tôi. “Không cần phải bỡn cợt, Laura. Anh không đề xuất chúng ta bắt đầu sản xuất những thứ rác rưởi.”

“Xin lỗi, Tom. Em chỉ hơi mệt thôi.”

“Tiệc tùng à?”

“Khó có thể. Làm việc khuya thôi.”

“Làm gì? Nếu em không ngại anh hỏi,” anh ấy thêm vào một cách lịch sự.

Tôi nhún vai. “Không sao. Soạn câu hỏi cho các quán rượu.”

“Thật à? Tại sao?”

“Thứ nhất, bởi vì em cần tiền, và thứ hai bởi vì em thích nó. Nó cũng thú vị...”

Anh nghiêng người về trước. “Cụ thể là như thế nào?”

“À, thông thường công ty em làm yêu cầu một loạt câu hỏi với các chủ đề khác nhau. Đêm qua hơi khó vì...” tôi nén lại một cái ngáp - “họ cần hai mươi câu hỏi về lịch sử Nga, và hai mươi câu hỏi khác về các câu lạc bộ bóng đá Ngoại hạng Scotland. Kết quả là em nằm mơ rằng Catherine Đại đế chơi cho đội Queen’s Park Rangers’.”

“Hừm.” Tom giơ tay lên và khẽ gõ gõ ngón tay vào môi.

“Em soạn câu hỏi,” tôi nói tiếp, “họ kiểm tra lại, sau đó họ ghép những câu hỏi vào với nhau và bán chúng cho những quán rượu. Tối nay em sẽ chuẩn bị mười lăm câu hỏi về những vở kịch của Ibsen, sau đó ngày mai là mười lăm câu về Nhà thờ Công giáo La Mã. Trong một tháng, em có thể kiếm thêm hai trăm bảng, mà Chúa biết, em có thể làm được.”

“Câu đố...” Tom nhắc lại. Anh chỉ chăm chăm nhìn tôi mà không nói gì. Tôi luôn cảm thấy thoải mái với Tom - chúng tôi có một mối quan hệ công việc rất tốt - nhưng lần này tôi thấy bồn chồn.

“Đại khái vậy, chúng ta có thể tiếp tục với cuộc họp không?” Tôi nói sau một lúc. “Em không phản đối về nhà sớm một chút tối nay, như em nói em hơi mệt và...”

“Chúng ta nên làm một chương trình đố vui,” Tom đột nhiên nói.

“Phải,” Sara nói, mặt cô ấy sáng lên. “Đó đúng là những gì em đang nghĩ. Đấy là một ý kiến hay tuyệt.”

“Một chương trình đố vui,” Tom nhắc lại. “Một chương trình thật hay. Anh không hiểu sao anh chưa bao giờ nghĩ về nó trước đây.”

“Có thể bởi vì đã có chương trình đố vui nào thực sự hay đang phát sóng đâu,” tôi tỉnh khô gợi ý.

Tom bắn một sợi dây chun khác ra ngoài cửa sổ đang mở. “Điều đó không có nghĩa chúng ta cũng không thể làm một chương trình thật hay.”

“Nó phải khác biệt,” Sara nói. Cô ấy bỏ cặp kính đen ra và bắt đầu lau nó bằng vạt áo, điều mà cô ấy thường làm khi bắt đầu hào hứng với một điều gì đó. “Nó sẽ là một chương trình không giống một chương trình nào đã có.”

“Tóm lại nó phải thật độc đáo,” Tom nói. “Nhưng câu hỏi là - với ý định mỉa mai - như thế nào?”

Vì vậy trong khoảng một giờ tiếp theo chúng tôi nói về các chương trình đố vui khác nhau và cố gắng phân tích cách nó hoạt động. Với Ai là triệu phú, chúng tôi quyết định rằng đó là Yếu tố Tham lam cộng với sự căng thẳng khác thường mà Chris Tarrant tạo ra. Với MasterMind đó là không khí rùng rợn cùng với âm nhạc đáng sợ, Chiếc Ghế Đen trong ánh đèn sân khấu gay gắt, theo như Tom, tạo ra do kinh nghiệm thẩm vấn của một tù nhân trong chiến tranh của người sáng tạo ra nó. Sự hấp dẫn của University Challenge đến từ việc theo dõi những thanh niên trả lời những câu hỏi khó như thế, và sức cuốn hút của The Weakest Link dường như là cảnh tượng hấp dẫn khi các người chơi yếu ớt quy phục những mệnh lệnh của Anne Robinson. Nhưng chúng tôi đồng ý rằng, thành công mấu chốt ngày càng tăng của thể loại này chính là thực tế đơn giản rằng tất cả chúng ta đều thích thể hiện những gì mình biết. Quan sát một cuộc thi khiến chúng ta trở lại chính mình lúc tám tuổi, xung phong giơ tay trong lớp học, hăng hái được trả lời.

“Phải,” Tom trầm ngâm. “Một chương trình đố vui... em nghĩ thế nào Laura?” Tôi nhún vai. Tôi thích những cuộc thi trên truyền hình như người bên cạnh nhưng chưa phút nào nghĩ đến chúng tôi sẽ làm một chương trình như thế.

“Ồ... em nghĩ được đấy. Thực ra, em thích ý tưởng đó - miễn là nó là một cuộc kiểm tra về kiến thức chung đúng đắn,” tôi nhanh chóng thêm vào. “Những thông tin thực sự - không phải tạp nham. Em không thể chịu đựng được việc phải soạn những câu hỏi về những tình tiết trong những vở kịch chương hồi hay... em không biết... Hoàng tử William đạt được bao nhiêu điểm A.”

“Đúng đấy,” Tom gật đầu nói, sau đó anh nhìn tôi. “Hoàng tử William đã có bao nhiêu điểm A?”

“Ba. Địa lý, Lịch sử Nghệ thuật và Sinh học. Ngài ấy có một điểm A, một B và một C.”

“Nhưng chương trình của chúng ta sẽ có hình thức như thế nào?” Tom xoay ghế lần nữa, hai bàn tay anh nắm sau đầu. “Làm thế nào chương trình của chúng ta có thể khác biệt?

Khi chúng tôi đi làm vào thứ Hai, chúng tôi đã biết câu trả lời. Suốt cuối tuần Tom đã nghĩ đến một ý tưởng cho một chương trình độc đáo - nếu không phải nói là nó thực sự khá cơ bản. Anh nói nó vừa nảy đến với anh, trong khi tắm. Anh bắt tất cả chúng tôi thề giữ bí mật. Chúng tôi lên một kế hoạch, và trong tháng tiếp theo chúng tôi làm việc như những con cún. Tom sản xuất, tôi soạn câu hỏi, Sara, trợ lý sản xuất, Gill và cô tiếp tân phiền toái đến mức khó tin Nerys đóng vai người dự thi. Để tiết kiệm tiền, tôi đối mặt với vấn đề đó. Trong vòng một tuần được quảng cáo, Whadda Ya Know?!![4] được bán cho một kênh truyền hình cáp mới - Challenge. Tuy nhiên, họ mua nó, với một điều kiện không được mong đợi - là tôi phải là người dẫn chương trình.


[4] Bạn biết những gì?!!

Giờ khi tôi rẽ trái vào Đường Tavistock, tôi nhớ lại Tom đã ngạc nhiên trước việc này như thế nào, cũng như tôi. Tôi có kinh nghiệm bằng không trong việc đứng trước camera và chúng tôi đoán rằng Challenge muốn đưa ra một ngôi sao. Nhưng Adrian, nhà Biên tập đương nhiệm nói anh ta muốn tôi dẫn nó bởi vì tôi là phụ nữ - rất ít phụ nữ dẫn chương trình đố vui - và, quan trọng hơn là, tôi còn trẻ.

“Hầu hết người dẫn chương trình đố vui đều ở tầm trung tuổi,” anh ta nói khi Tom và tôi ngồi trong văn phòng thoảng mùi da của anh ta, vết mực chữ ký của chúng tôi vẫn còn ướt trên hợp đồng để trước mặt. “Sẽ là một thay đổi mới mẻ khi có một chương trình chất lượng dẫn bởi một người khoảng ba mươi tuổi thay vì năm mươi. Tôi cũng thích thực tế là cô...” và đến đây anh ta ngập ngừng - “dễ gây chú ý.” Tôi nhăn nhó. “Nào, đừng hiểu sai ý tôi, Laura,” anh ta thêm vào, quá vội vàng. “Nhưng cô, ừm, khá là... không thông thường. Cái mà mọi người có lẽ gọi là ‘une jolie laide’.”

“Từ đấy có nghĩa là ‘xấu dễ chịu’ đúng không” Tôi chế nhạo để che giấu cơn giận của mình.

“Ồ, không, không - không hề có ý đó. Cô là một phụ nữ hấp dẫn,” anh ta thêm vào, lại quá nhanh, tôi nghĩ.

“Đúng thế,” Tom nói. “Laura rất đáng yêu.”

“Tất nhiên,” Adrian tiếp tục. “Cô rất hấp dẫn, Laura... ừm...”

“Theo cách nào?” Tôi hài lòng nói.

“Chỉ là vẻ ngoài của cô...” anh ta liếc nhìn tôi, nghiêng đầu sang một bên - “độc đáo.” Đến giờ tôi cảm giác như Elephant Man[5]. “Cô hơi giống Andie McDowell[6]...”

[5] Một nhân vật trong bộ phim The Elephant Man: Một bác sỹ thời Victoria đã cứu được một người đàn ông xấu xí bị đối xử tàn tệ trong khi sống lê lết như một quái vật trong những buổi biểu diễn. Nhưng đằng sau vẻ ngoài quái vật đó, lại là một người đàn ông thông minh và nhạy cảm. (ND)

[6] Rosalie Anderson “Andie” MacDowell: một nữ diễn viên và người mẫu của Mỹ. (ND)

“Có gì sai à?” Tôi gợi ý.

“À - ph-ải. Cô có thể nói như thế. Tôi hy vọng không làm tổn thương cảm giác của cô.” Anh ta lập cập.

“Không đâu,” tôi lịch sự nói. “Thật đấy.” Trong bất cứ trường hợp nào tôi đã quen với nó. Chị em gái tôi có thể đẹp hơn nhưng tôi là kiểu mà bạn lịch sự gọi là ‘có tính cách’: tôi thừa hưởng chiếc cằm góc cạnh của bố, và chiếc mũi quá-dài của ông. Điều đáng cáu là tôi đã là một đứa bé đáng yêu - tôi là con thiên nga xinh xắn biến thành một con vịt.

“Nhưng điều tôi thực sự thích ở cô,” Adrian tiếp tục, “là cô có quyền lực.”

“Vậy sao?” Tôi băn khoăn nói. Điều này chưa bao giờ xảy đến với tôi, mặc dù tôi thích ý nghĩ đó. Có lẽ tôi nên là một cảnh sát - hay một quản giáo trại giam.

“Cô có quyền lực tự nhiên - là phẩm chất một người dẫn chương trình cần nhất. Họ có thể thể hiện bằng rất nhiều cách,” anh ta tiếp tục. “Trong The Weakest Link, Anne Robinson thể hiện một kiểu quyền lực bằng cách tỏ ra khó chịu; Jeremy Paxman có quyền lực trong University Challenge bởi vì anh ta là một nhà báo thực sự, John Humphreys trong Mastermind cũng vậy. Cô cũng có quyền lực, Laura. Tôi nghĩ người xem sẽ cảm thấy an toàn với cô và rằng cô có thể tự trả lời rất nhiều câu hỏi.”

“Cô ấy có thể,” Tom xen vào. “Cô ấy hiểu biết một cách khó tin.”

“Lãng phí tuổi xuân,” tôi giải thích. “Vùi đầu vào sách vở.”

“Cộng thêm em có một trí nhớ tuyệt diệu,” Tom nhiệt tình thêm vào. Tôi nhún vai. Nhưng, thành thật mà nói, điều đó đúng. Sự kiện và con số - cho dù vô ích - dính vào trí nhớ của tôi như kẹo cao su dính vào vỉa hè. Tôi chỉ phải đọc điều gì đó một lần để nó ngấm vào. Tôi luôn luôn coi điều này là kỳ dị - giống như có một giọng nói cao chói lọi, hoặc ngón chân thứ sáu - nhưng thỉnh thoảng nó có thể trở nên thuận tiện. Ví dụ, không cần danh sách mua sắm. Nhớ tên và ngày tháng một cách tuyệt vời. Không có khó khăn gì để nhớ cái gì đã trôi qua trên băng truyền của Trò chơi Thế hệ - Cuddly toy-Teasmaid-Toaster-Carmen Rollers - và, khi tôi lên chín, tôi đã thắng một chuyến du lịch dành cho gia đình đến Paris bằng cách kể lại năm mươi bang của Liên bang Mỹ theo thứ tự chữ cái ngược lại.

“Phải, ừm,” Adrian tiếp tục, “Tôi nghĩ người xem sẽ cảm thấy cô không chỉ đọc câu hỏi; và với hình thức này - đặc biệt cộng với nét độc đáo khác thường của nó - đó là những gì chương trình này thực sự cần.”

Tom đã vui mừng vì tôi sẽ dẫn chương tình. Như tôi nói, chúng tôi có một mối quan hệ tốt - mặc dù nó chỉ thuần túy là công việc, đừng nghĩ xiên xẹo. Tôi thích Tom. Anh ấy thông minh, điềm tĩnh, rất tốt bụng và phải, nếu tôi không nghĩ về nó, anh ấy cực kỳ đẹp trai, và anh ấy có một giọng nói Bắc Mỹ hấp dẫn. Nhưng tôi không bao giờ có thể nhìn thấy anh ấy khác hơn là một đồng nghiệp bởi vì: a) anh ấy là ông chủ của tôi và nó có thể sẽ trở nên kỳ quặc và b) Tôi biết anh ấy đã từng làm vài chuyện không được... hay cho lắm.

Nhưng, trở lại chương trình đố vui, Tom từng lo lắng rằng không ‘ngôi sao’ tiếng tăm nào muốn dẫn nó. Vì nó cũng có những nguy cơ nghiêm trọng. Họ có thể rất bẽ mặt nếu làm không tốt - họ có thể sẽ tạo ra một ấn tượng thực sự xấu. Nhưng điều khiến Whadda Ya Know?!! gây khó khăn cho người dẫn chính xác là làm thế nào để nó cuốn hút người xem. Và vì vậy, tháng Chín vừa rồi chương trình phát sóng. Khi lên sóng, ban đầu nó chưa có được lượng khán giả lớn - chỉ hai trăm nghìn, nhưng chúng tôi đang hy vọng sẽ tăng thêm. Và một mẩu nhỏ xuất hiện trên tờ Time Out miêu tả nó có ‘phong cách’ và ‘đột phá’. Và trước khi chúng tôi biết, Channel Four đã tiến đến, đánh bại Challenge cho seri thứ hai với giá ba mươi ngàn bảng cho một chương trình.

Vì vậy tối nay là một tối rất quan trọng bởi vì Whadda Ya Know?!! sẽ phát sóng toàn quốc lần đầu tiên. Và bạn có lẽ nghĩ rằng dẫn một cuộc thi trên TV vào giờ cao điểm khiến tôi hạnh phúc, và tất nhiên theo một cách nào đấy - nhưng, theo cách khác, nó cũng làm tôi ngập tràn kinh hãi...

***

Sẽ có những trở ngại, rồi bạn xem. Những trở ngại lớn, tôi hồi hộp nhớ lại khi tôi rẽ thẳng vào Đường All Saints. Một mặt tôi hy vọng chương trình sẽ không thành công, bởi vì nếu thế, sau đó chuyện xảy ra với Nick có thể bị đào bới lên.

Tôi dừng lại ở một sạp báo và mua tờ Independent. Tôi cảm thấy một dòng adrenaline tuôn trào khi tôi giở đến Lịch phát sóng chương trình tivi. Nó đây, vào lúc 8h tối, và bên cạnh nó viết Xem tít. Mắt đôi lướt lên đầu trang. Ô! - Whadda Ya Know?!! Một chương trình đố vui mới! Nhưng, bạn biết những gì này thực sự là một chương trình khác hẳn. Người dẫn chương trình mới Laura Quick (bên phải) trông thật thông minh - và cô ấy sẽ cần phải như vậy. Cuốn hút.

Bụng tôi đang sôi lên, nhưng khi tôi đi qua đường đến All Saint Mews, tôi cảm sự căng thẳng giảm xuống. Đối với tôi, đây là con phố đẹp nhất của Luân-Đôn; dù trong những ngày lạnh và có mưa tuyết như ngày hôm nay. Nó khá rộng đối với một con phố, và những ngôi nhà được sơn như sắc màu bờ biển: màu hồng, vàng chanh và xanh lơ. Những cây leo ngoan ngoãn gọn gàng leo lên mặt ngoài ngôi nhà rồi cuốn quanh những thành ban công bằng sắt chạm trổ. Tôi bắt được mùi hương của hoa Clematis Armandii trắng khi đi qua nhà số 12, và ngắm nhìn những chậu hoa lê lư chấm hoa cà.

Trident TV nằm giữa phố bên tay trái, chiếm cứ hai ngôi nhà trắng có cửa chớp liền nhau để tạo thành một văn phòng công ty duy nhất ở con đường này. Không có vẻ ngoài quá thương mại hóa, ngôi nhà có một bầu không khí làm việc dễ chịu. Tôi giũ chiếc ô, sau đó đẩy cửa vào. Đó là Nerys, ngồi sau một chiếc bàn trong khu vực lễ tân nhỏ xíu của chúng tôi.

“Vì vậy sau đó tớ nói với cô ấy...” tôi nghe cô ấy nói bằng một giọng thì thầm khi tôi gập ô lại, “và rồi cô ấy quay lại với tớ và nói... à, không... được rồi. Cô ấy đang hồi hộp, và vì thế tớ nghĩ, ồ, tớ không thể chịu đựng chuyện này, vì thế tớ quay sang cô ấy vào nói - ồ chỉ một phút thôi Shirl...”

“Chào,” Tôi tươi tỉnh nói. Tôi có thể không thích Nerys lắm, nhưng tôi luôn lịch sự với cô ấy.

“Chào, Laura. Tớ gọi cho cậu sau, Shirl.” Cô ấy đặt ống nghe xuống. “Cái này là của cô...” Cô ấy ra hiệu một cách bí ẩn về bó hoa tu líp vàng, hoa hồng trắng và mimosa vàng. Cô ấy vỗ vỗ vào mái tóc màu cam và mượt như kẹo bông. “Chúng được đưa đến khoảng một giờ trước.”

“Thật đẹp,” Tôi bâng khuâng nói, vẻ cau có của tôi với Nerys biến mất. Mùi hương vani của mimosa thật tuyệt. Tôi gỡ tấm thiệp ra. “Tôi tự hỏi ai gửi nó?”

“Em gái cô, Hope và chồng cô ấy.”

Tôi cảm thấy nhói giận. “Làm sao cô biết?”

“Bởi vì cô ấy gọi điện để kiểm tra chúng đến chưa.”

“Tôi hiểu rồi. Đừng để ý,” tôi nhanh nhẹn thêm vào. “Tôi luôn nghĩ những điều ngạc nhiên đáng yêu hơi quá thái.”

Cô ấy nghiên cứu những móng tay của mình. “Ồ, tôi xin lỗi, Laura, nhưng cô đã hỏi.”

“Đó là một câu hỏi tu từ,” tôi ngọt ngào giải thích trong lúc cởi áo khoác.

Miễn khỏi sự khiển trách - cô ấy có da mặt dày - Nerys giờ đang nhìn chằm chằm vào nửa người trên của tôi. “Cô sẽ không mặc chiếc áo khoác đấy trong chương trình chứ?”

“Ừ.” tôi nhìn cô ấy. “Sao thế?”

Cô ấy nghiêng đầu sang một bên. “À, nếu cô đã hỏi, tôi không nghĩ rằng màu đó thực sự hợp với cô.”

“Tôi không hỏi cô, Nerys.”

“Hãy nghe tôi, màu xanh vàng...” cô ấy hít không khí qua hai hàm răng “À, không - không hợp. Cô nên mặc màu hồng,” cô ấy nói thêm khi điện thoại réo lên. “Hay màu hồng đào. Thực ra cô biết mình nên làm gì - cô nên nghĩ lại về màu sắc của mình chọn. Cô trông giống như một Mùa hè đối với tôi. Ch-à-o - Trident Tiii-viii...”

Khi tôi nói không thích Nerys lắm, tôi thực sự có ý là hoàn toàn không thích cô ấy. Nhiều đến nỗi thỉnh thoảng tôi tự giải trí bằng những hình ảnh tưởng tượng băm cô ấy ra thành nhiều miếng nhỏ và cho con mèo nhà bên cạnh ăn. Tôi thường tự hỏi tại sao cô ấy có tác động này đến tôi. Đó có phải là lượng thời gian cô ấy dành cho những cuộc điện thoại cá nhân? Nhưng đó không phải việc của tôi - Trident thuộc về Tom. Hay có phải là vì cô ấy cố tình trở nên khó chịu? Cô ấy có lẽ là người không lịch thiệp khiến người khác cứng họng, nhưng không phải như thế. Vậy có phải là cách cô ấy cứ nói mãi, “Cô không bao giờ nghĩ tôi đã ba mươi ba tuổi, đúng không?” Sao cô ấy cứ phải lừa dối chính mình như thế nhỉ? Không, lý do Nerys đẩy tôi đến gần tình trạng phát khùng lên là bởi vì cô ấy là một trong những người phiền phức mà luôn biết điều hay nhất. Cho dù chủ đề là gì, Nerys luôn có câu trả lời “Hãy nghe lời khuyên của tôi,” cô ấy thích nói thế, hoặc “Nếu cô muốn nghe lời khuyên của tôi...” hoặc “Tôi sẽ nói với cô tôi nghĩ gì...” Và bởi vì tòa nhà nhỏ, không vách ngăn này quá dễ dàng để cho cô ấy làm như thế.

Chúng tôi đang thảo luận vài điều cần làm với chương trình, và đột nhiên chúng tôi nghe thấy cô ấy nói to ý kiến từ chiếc bàn đằng trước; tính thuyết phục của những ý kiến đấy chỉ có thể cân xứng được với sự ngu ngốc của cô ấy. Một ngày khác, tôi đang nói chuyện với Dylan, biên tập kịch bản mới của chúng tôi - anh ấy thực ra là một nhà nghiên cứu, hoàn hảo cho một chương trình đố vui. Chúng tôi đang thảo luận một trong những câu hỏi về Wallis Simpson. Chúng tôi tự soạn câu hỏi - Dylan phụ trách những câu hỏi về khoa học, địa lý và thể thao, còn tôi chịu tránh nhiệm về những câu hỏi liên quan đến chính trị, lịch sử và nghệ thuật - và chúng tôi đang nói về những hoạt động của Công tước Windsor khi là Nhà cầm quyền ở Bahamas.

“Là Bermuda chứ?” chúng tôi bỗng nhiên nghe thấy từ bàn lễ tân. “Công tước của Windsor là người đứng đầu của Bermuda, phải không?”

“Không, Nerys,” Dylan lịch sự đáp lại. “Là Bahamas.”

“Thực ư?” Có một phút im lặng sững sờ - và thành thật mà nói, lạc lõng - và sau đó chúng tôi nghe thấy, “Anh có chắc không?”

“Có, Nerys. Chúng tôi rất chắc chắn,” Dylan trả lời với sự kiên nhẫn của một vị thánh.

“Bởi vì tôi nghĩ nó là Bermuda.”

“Thành thật mà nói, Nerys,” tôi nói. “Nó chính xác là Bahamas bởi vì a) nó đúng là thế và b) Dylan và tôi đã kiểm tra trong hai cuốn sách tham khảo và trên net để chắc chắn 100%. Bởi vì chúng tôi luôn làm như thế.”

“Tôi hiểu,” cô ấy trả lời, trước khi thêm vào, như là một sự nhượng bộ duyên dáng, “Ồ, thì vậy - nếu hai người chắc chắn.”

Theo rất nhiều phương diện thì thật vô lý khi tôi không thích Nerys nhiều đến như vậy vì tôi biết cô ấy có ý tốt. Đó lại là điều tệ nhất - cô ấy thực sự đang cố gắng để giúp đỡ. Cô ấy không thích gì hơn thế trong thế giới này. Tôi đã nhìn thấy cô ấy thực sự túm lấy những người khách du lịch để chỉ cho họ đường đến Portobello. Và rất nhiều lần tôi nghe thấy cô ấy đưa ra những lời khuyên không được yêu cầu cho những người lạ vào cửa hàng. Cô không muốn trả mười lăm bảng cho cái đó chứ... họ chỉ mua chúng với giá mười bảng ở Woolworths... vâng, đúng thế - mười bảng... nó không xa lắm... rẽ trái hai lần, rẽ phải, đi thẳng khoảng tám trăm thước, sau đó sẽ phải, rẽ trái lần thứ tư, qua Buybest, đối diện với Nhà thuốc ABC... được rồi, rất vui lòng - không thật đấy... không phiền gì - thật đấy đừng để tâm.

Và còn một điều nữa. Nerys nghĩ rằng mọi người mắc nợ cô ấy, và phơi mình trong lòng biết ơn tưởng tượng của họ. Cô ấy đè bẹp những lời nhận xét tức tối của chúng tôi như một cỗ xe tăng của Sherman đè bẹp những quả bóng bàn. Cô ấy hoàn toàn vô cảm trước chúng. Và mặc dù cô ấy khiến chúng tôi phát điên lên, Tom giữ cô ấy lại vì lý do rất xác đáng là a) có một người lễ tân mang đến một ấn tượng rằng chúng tôi là một công ty lớn và tốt hơn rất nhiều so với thực tế và b) cô ấy say mê được làm việc cho anh ấy. Trong hai năm làm việc ở đây, cô ấy luôn đi làm đúng giờ, chưa bao giờ nghỉ một ngày và, theo cách của cô ấy, cô ấy hoàn thành tốt công việc của mình. Cô ấy mở cửa văn phòng vào buổi sáng. Nếu máy photo bị hỏng, cô ấy gọi người sửa chữa. Cô ấy làm tất cả công việc của một thư ký và sắp xếp phương tiện cho chúng tôi đến và quay về từ trường quay. Cô ấy thay bóng đèn, và tưới cây. Tom trân trọng lòng trung thành của cô ấy. Anh ấy cũng cảm thấy tránh nhiệm với cô ấy vì anh ấy nói cô ấy quá phiền phức đến nỗi cô ấy sẽ không bao giờ có được một công việc ở chỗ khác. Không cần phải nói, Nerys tự cho rằng mình là một người ham mê câu đó và háo hức với Whadda Ya Know?!! “Thật tiếc khi tôi không thể tham gia vào chương trình,” cô ấy thường nói. “Tôi nghĩ tôi chơi khá tốt.”

Tôi đi qua văn phòng ngày càng giống như một thư viện nhỏ - từng khoảng trống của bức tường chất đầy một lượng khổng lồ những sách tham khảo mà chúng tôi cần để soạn câu hỏi. Những giá sách xiêu vẹo trĩu xuống với Chỉ dẫn về phim và Video của Halliwell, Từ điển Nghệ thuật của Penguin, hai mươi chín tập Bách khoa Toàn thư Anh[7] và Bảng xếp hạng Anh toàn tập[8]. Chúng tôi có Từ điển những Trích dẫn của Oxford, sách Kỷ lục Guinness, Science Desk Reference và Debrett’s[9]. Cộng với Từ điển rút ngọn Tiểu sử Quốc gia, Bách khoa toàn thư về các Trận đánh, Sơ lược về các Loài Hoa dại Anh quốc, và Ai là Ai.

[7] Encyclopædia Britannica là bộ bách khoa toàn thư tiếng Anh lâu đời nhất và được nhiều người cho là bộ bách khoa tri thức chuẩn mực nhất. Tên của bộ bách khoa toàn thư này nghĩa là “Bách khoa toàn thư Anh”; “æ” là chữ cổ nối a và e, vẫn được in như vậy ở nước Anh. Bộ đầu tiên được xuất bản trong những năm 1768-1771. Tuy nó vẫn giữ tên Britannica (tiếng Latinh của đảo Anh), nó được xuất bản bởi Encyclopædia Britannica Inc. ở Chicago, Illinois (Hoa Kỳ). Nó đã được nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Nga, Trung Quốc, Nhật... dịch và sử dụng như một kho kiến thức không thể thiếu. Bộ bách khoa này liên tục được sửa chữa bổ sung và đến nay vẫn là tài liệu tham khảo được những người dùng tiếng Anh trên khắp thế giới biết đến. (ND)

[8] Cuốn sách tham khảo khổng lồ này liệt kê đầy đủ mỗi một bảng xếp hạng dành cho các album, đĩa đơn và đĩa mở rộng kể từ khi Bảng Xếp hạng UK được hình thành vào năm 1952 cho đến tháng Mười hai năm 2003. Các hit được sắp xếp theo tên nghệ sĩ và được kèm theo nơi sản xuất, vị trí xếp hạng, số tuần trong bản xếp hạng. Nó còn có mục “Thống kê” ở đó sẽ liệt kê ra ca khúc nào dành được vị trí số một nhiều nhất, dành được top ten hits nhiều nhất, vị trí số một trong nhiều tuần nhất, ở trong bảng xếp hạng nhiều tuần nhất... (ND)

[9] Debrett's là một nhà xuất bản đặc biệt, được thành lập vào năm 1769, chuyên xuất bản các ấn phẩm nói về phép lịch sự, phép xã giao, cách cư xử...(ND)

Dylan đang ngồi ở bàn, nghe điện thoại, lơ đãng cuốn dải ca-vát quanh ngón tay trỏ, trong khi Tom loanh quanh bên chiếc máy in để ở giữa, đang đẩy ra những bản in kịch bản chương trình.

“Chào,” tôi nói với Tom trong tiếng ồn ào của chiếc máy in laze. Bình thường Tom vẫn mặc quần jean, nhưng hôm nay là ngày thu hình - chúng tôi ghi hình trước sáu tuần - anh ấy đang mặc com lê - với vẻ ngoài của một Hoàng tử xứ Wales.

Anh ấy nhìn lên. “Chào, Laura.” Đôi mắt màu xanh lơ của anh nhăn lại thành một nụ cười, những nếp nhăn lan ra từ đuôi mắt. “Giờ. Anh cần hỏi em một câu rất nghiêm chỉnh.”

“Anh cứ hỏi đi.”

“Ai gửi hoa cho em?”

Tôi mỉm cười. “Em gái Hope của em và chồng nó - để chúc em may mắn. Sao thế?”


“Anh nghĩ chúng được một người hâm mộ gửi đến, thế thôi.”

“Không.” Tôi đi đến bàn của mình. “Em không có người hâm mộ nào.”

“Chắc chắn là em có.”

“Không, em khẳng định với anh đấy. Em đã không hẹn hò gì rất lâu rồi.”

“Thế thì bây giờ thật đúng lúc. Em còn trẻ, Laura à.”

“Vớ vẩn.”

“Và em xinh đẹp.”

“Khó có thể, nhưng cám ơn.”

“Vì vậy em chỉ cần ra ngoài đó và... nắm lấy hiện tại.”

“Ừm,” tôi nói. “Có lẽ anh nói đúng.” Một mối quan hệ mới sẽ giúp tôi tiến về phía trước, và không hề mong muốn tỏ ra vô tình, nhưng Nick khó có thể ở trong vị thế để phản đối - tuy nhiên cũng là một ý kiến đáng sợ.

“Dù sao, hôm nay là một ngày trọng đại đối với em.”

Bụng tôi lộn nhào. “Là một ngày trọng đại - hoàn toàn đúng.” Hôm nay, tôi nghĩ, cuộc đời tôi có thể thay đổi mãi mãi.

Tom nhấc những trang bản thảo ra và bắt đầu xếp chúng theo đúng thứ tự. “Vậy em cảm thấy ổn chứ?”

Tôi lắc đầu. “Em cảm thấy hồi hộp kinh khủng để nói với anh sự thật.”

“Những nhà phê bình sẽ thích em, Laura. Hãy tự tin.” Anh nhặt một cái dập ghim màu đỏ và bắt đầu bấm những tờ giấy lại với nhau.

“Ý em không phải như vậy.”

Chiếc ghim dừng lại giữa chừng. “Ồ.” Giọng anh nhỏ lại. “Bởi vì... Nick.”

Tôi gật đầu. Tom biết chuyện gì xảy ra. Mọi người ở đây đều biết - nhưng cũng vì nó quá ầm ĩ để che giấu.

“Em cảm thấy mình như một mục tiêu, Tom ạ, chờ đợi để bị bắn.”

Tom nhìn tôi, sau đó tiếp tục bấm giấy. “À, đó là nguy cơ em phải đương đầu. Chúng ta đã nói về nó khi em đồng ý xuất hiện trong chương trình, nhớ không?

“Có,” tôi lẩm bẩm. “Em nhớ. Nhưng thời điểm nó chỉ được phát trên truyền hình cáp - chúng ta không hề biết rằng nó sẽ lên sóng quốc gia, đừng nói đến phát trong giờ cao điểm.”

“Anh hy vọng em không hối tiếc chuyện đấy.”

“Không,” tôi thở dài. “Tất nhiên là không - em rất háo hức - em vẫn thế. Nhưng bây giờ em đang phơi mình trước sự tò mò của phương tiện thông tin đại chúng. Em không thể không cảm thấy... khiếp sợ, quả thực vậy.”

“Ồ, đừng thế.” Anh đứng thẳng dậy. “Trong bất kỳ tình huống nào, Laura, chuyện xảy ra với Nick không phải lỗi của em, đúng không nào?”

Tôi nhìn chằm chằm vào anh. Lỗi của em... “Không. Không, nó không phải lỗi của em.”

“Nếu chương trình thành công,” anh tiếp tục, “thì phải, câu chuyện này có thể lại bị khơi dậy. Vì vậy hãy chắc chắn những người gần nhất và thân nhất của em trước hết hãy giữ im lặng.” Tôi thầm ghi nhớ nhắc chị em gái mình giữ im lặng. “Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, em không làm gì sai cả. Em không có gì phải xấu hổ, đúng không, Laura?”

Phải xấu hổ... “Không. Không. Em không có. Đúng thế.”

“Dù sao đi nữa, có một mẩu tin nhỏ thân thiện trên tờ Times hôm nay,” anh nói. “Đây...” Anh đưa nó cho tôi. Mẩu tin tán thưởng hết lời về ‘hình thức độc đáo’ của chương trình - với ‘sự biến đổi không đoán được’ - và về kỹ năng dẫn của tôi. Tôi chỉ cho anh bài báo trên tờ Independent.

“ ‘Cuốn hút...’” Tom đọc lên. “Tốt.” Anh gật đầu. “Ừm, anh nghĩ nó cuốn hút - nếu anh được phép nói như thế về đứa con của chính mình.” Tôi nhìn anh. “Dù sao đi nữa, anh nên đến trường quay thôi.” Anh với lấy chiếc áo khoác. “Ner-ys,” anh hét lên. “Xe của tôi ở đó chưa?”

Tôi nhìn thấy cô ấy ló ra từ tấm ngăn gỗ mỏng. “Vừa đến.”

“Anh gặp em ở đấy trong một giờ nữa được không, Laura?” Tom nói. Tôi gật đầu. “Đừng đến trễ nhé.”

“Không đâu. Em chỉ cùng Dylan xem lướt qua kịch bản thôi.”

Tôi cắm hoa vào lọ, sau đó gửi cho Hope một tấm bưu thiếp cảm ơn qua internet. Và lúc tôi ấn ‘Gửi’, Dylan đang kết thúc cuộc gọi và vẫy tôi. Anh ấy từng là người đặt câu hỏi cho chương trìnhMastermind, và giờ là nhà biên tập kịch bản cho Whadda Ya Know?!! Anh ấy quyết định những câu hỏi nào nên đưa vào mỗi chương trình, và theo trình tự nào, sau đó anh ấy sẽ thảo luận chi tiết với tôi trước khi ghi hình.

“Được rồi, Laura.” Anh ấy cầm file kẹp tài liệu lên. “Em khởi đầu với mười câu. Tên của hợp kim giữa đồng và thiếc là gì?”

“Đồng thau!” Chúng tôi nghe Neryes hét lên từ chiếc bàn trước.

“Đồng thiếc,” tôi trả lời.

“Đúng. Chữ số La Mã cho một ngàn là gì?”

“C!” cô ấy thét lên.

“M.”

“Thủ đô của Armenia là gì?”

“Ulan Balor!”

“Yerevan.”

“Là Yerevan,” Dylan vừa nói vừa đảo tròn mắt. Tôi ngồi xuống bàn làm việc của mình.

“Hoggerel là con gì?” Tôi nghe anh ấy nói khi nghịch nghịch một cái kẹp giấy lớn.

Tôi ngước nhìn anh ấy. “Một gì?”

“Hoggerel.”

“Bỏ qua!” Nerys nói với ra. “Dù sao, câu đấy quá khó nếu anh muốn nghe ý kiến của tôi. Xin ch-à-o, Trident Tiii-viii...”

“Một hoggerel.” Tôi nhắc lại. “Không có ý tưởng.”

“Đó là một con cừu một năm tuổi - em có thể chấp nhận đáp án một con cừu ‘non’. Ai là người khám phá ra nguồn của sông Nile?”

“Livingstone,” tôi lơ đãng trả lời. “Không, không phải Livingstone - ờ... ý em là - Speke.”

“Dãy núi của Scotland nằm ở Aviemore tên là gì?”

“Dãy Cairngorms.”

“Màu để tang truyền thống của Hồi giáo là màu gì?”

“Trắng.”

“Trong sinh học người, thuật ngữ nào miêu tả quả cầu rỗng bao gồm những tế bào trong giai đoạn phát triển ban đầu của một bào thai?” Tôi cảm thấy bên trong mình động đậy.

“Anh phải giục em nhanh lên...” Tôi nghe Dylan nói. “Em có biết không? Chắc chắn là em biết - một phụ nữ hiểu rộng như em.”

“Có, em biết. Đó là phôi thai.”

“Đúng.” Tôi hình dung một đốm nhỏ xíu, nhỏ hơn cả một dấu chấm, nhưng đã chứa đựng sự sống, chìm sâu trong bóng tối mềm mại của bức tường tử cung.

“Em ổn chứ Laura?”

“Gì cơ? Ừ... tất nhiên. Tiếp tục đi.”

Anh ấy lật qua trang. “Tên Ấn Độ theo tiếng Hindi là gì?”

Sindh, tôi băn khoăn? Không, đó là một tỉnh... Tên Ấn Độ trong chữ Hindi ... chắc chắn là bắt đầu với một chữ ‘b’... một chữ ‘b’... một chữ ‘b’... một chữ ‘b’...” Brarat, đúng không?”


“Đúng.”

“Vậy là chúng ta đã lướt qua tất cả các chủ đề?” Tôi hỏi sau khi chúng tôi tiếp tục với tổng cộng sáu mươi câu hỏi.

Dylan gật đầu. “Toàn bộ.” Anh ấy hít một hơi thở sâu. “Lịch sử, Chính trị, Khoa học, Văn học, Tôn giáo, Triết học, Địa lý, Chế độ quân chủ, Nhạc cổ điển, Nhạc trẻ, Giải trí, Kiến trúc, Ba lê, Các loại hình nghệ thuật và Thể thao.”

“Bao hàm toàn diện nhỉ.”

“Em hài lòng với kịch bản không?”

Tôi lướt nhanh qua nó. “Nó có vẻ ổn.”

“Xe của cô đã ở đây, Laura.” Tôi nghe Nerys gọi. Tôi nhấc túi xách lên.

“Anh có đi cùng với em không, Dylan?” Anh ấy túm lấy áo khoác da và mũ bảo hiểm.

“Không - anh sẽ gặp em ở đấy, anh đi bằng xe máy.”

“Bây giờ anh phải cẩn thận khi lái chiếc xe đó!” Tôi nghe Nerys nói với khi anh ấy rời tòa nhà. “Anh cần phải cẩn thận!”

“Ừ Nerys. Tôi luôn luôn cẩn thận.”

Khi tôi đi qua bàn, Nerys đưa tôi một phong bì lớn. “Danh sách người chơi. Sara yêu cầu tôi đưa nó cho cô trước khi cô ấy đi đến trường quay sáng nay.”

“Cảm ơn. Tôi sẽ xem nó trên đường đi.”

“Vậy chúc may mắn nhé, Laura.” Cô ấy tán thưởng nhìn tôi. “Phải - cô trông như một Mùa hè. Tôi có thể nói thế từ màu sắc làn da của cô. Xin ch-à-o, Triden Tiii-viii...”

Chúng tôi sử dụng trường quay ở Acton, nên sẽ không mất thời gian để đi đến từ Notting Hill. Nhưng hôm nay giao thông bị chậm lại do thời tiết - tuyết đã chuyển thành mưa xối xả. Sau đó chúng tôi bị trì hoãn mười phút ở White City bởi vì ai đó bị hỏng xe, và tiếp đó chúng tôi đụng phải đoạn đường đang sửa. Người lái xe đang huyên thuyên về Ken Livingstone, và anh ta muốn ông ấy làm gì cho mình, đến khi đó tôi mới nhớ ra bản danh sách. Tôi không gặp những người chơi trước - Sara tiếp xúc trước với họ - nhưng đến ngày thu hình tôi được đưa một bản tiểu sử vắn tắt của mỗi người. Và tôi chỉ vừa mới định mở phong bì và đọc bốn cái tên, những miêu tả ngắn gọn về họ là ai, họ làm gì và sở thích của họ là gì, v.v và v.v, thì điện thoại của tôi kêu. Tôi mò mẫm trong túi xách.

“Laura!” Đó là chị gái tôi, Felicity. Chị ấy thích tán chuyện - không may mắn là về một điều duy nhất. Tôi gồng mình. “Đoán xem sáng nay Olivia khám phá ra cái gì?” chị ấy bắt đầu không buồn thở.

“Để em xem,” tôi trả lời khi liếc ra ngoài cửa sổ. “Một cách chữa bệnh ung thư? Cuộc sống trên sao Hỏa? Căn bậc hai của cạnh huyền?”

Có một tiếng cười chế giễu nhưng vui vẻ. “Đừng ngốc nghếch thế chứ Laura. Chưa đâu.”

“Vậy nó đã khám phá ra cái gì? Kể cho em đi.”

“Ồ, điều này thật đáng yêu - bàn chân của nó!”

“Thực ư?” Tôi nói khi chúng tôi ngừng lại ở vạch kẻ dành cho người đi bộ. “Chúng ở đâu?”

“Ở gót chân nó, tất nhiên!”

“Không phải đó là nơi chúng thường ở hay sao?”

“Phải, nhưng trẻ con không biết điều đó, không phải sao? Chúng thường đột ngột phát hiện ra nó khi chúng khoảng sáu tháng tuổi và chúng rất thích thú. Chị chỉ muốn chia sẻ điều đó với em.” Tôi nén lại một cái ngáp. “Em biết không, sáng nay nó nằm trên ghế thay đồ bi bô và mỉm cười với chị một cách đáng yêu như mọi lần - chỉ nhìn chị và mỉm cười - phải-không-con-gái-đáng-yêu-ngọt-ngào-của-mẹ?” chị ấy thêm vào một tiếng cười khúc khích. “Sau đó, nó đột nhiên nhìn vào bàn chân mình rất rất lâu, Laura, và sau đó nó túm lấy chúng và bắt đầu chơi đùa với chúng. Điều này thực sự đáng ngạc nhiên... chỉ chơi đùa với những ngón chân của nó và... em vẫn ở đó chứ, Laura?”

“Có... có chứ.”

“Em không nghĩ điều đó thật không thể tin được hay sao?” Tôi nghĩ về cái chấm nhỏ chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi, những tế bào của nó phân chia, và nhân đôi.

“Đó là một điều kỳ diệu.” Tôi liếc ra ngoài cửa sổ.

“À, chị cũng không mê muội đến thế. Nhưng đó là một cột mốc nhỏ quan trọng,” tôi nghe thấy Felicity tự hào thêm vào. “Và điều thú vị là Olivia mới chỉ năm tháng và ba ngày tuổi - thế nghĩa là sớm hơn một tháng. Cháu gái em phát triển sớm - đúng-không-nào-con-gái-đáng-yêu-của-mẹ?” Giọng chị ấy bất chợt tăng lên hai quãng tám lần nữa. “Con-tiến-bộ-rất-RẤT-nhanh!”

“Vậy việc cho bú hiển nhiên là mang lại kết quả,” tôi nói với tất cả lòng nhiệt thành có thể gom được.

“Ồ, tất nhiên. Sữa mẹ thực sự làm bọn trẻ thông minh hơn.”

“Em không chắc, Fliss. Mẹ chỉ cho chúng ta bú hai tuần và -”

“Chị biết,” chị ấy nói với vẻ khó chịu. “Hãy nghĩ về việc chúng ta sẽ thông minh như thế nào! Ôi Chúa ơi, nó vừa trớ ra khắp người chị... giữ máy nhé - ổn thôi con-gái-đáng-yêu-của-mẹ, không-sao-đâu-con - miếng vải muslin đó đâu rồi nhỉ? Mình không bao giờ tìm được nó khi cần... khỉ thật, khỉ thật, khỉ thật - ồ, đây rồi... Laura? Laura - em vẫn ở đó chứ?”

“Còn, nhưng giờ em đang trên đường đến trường quay và -”

“Chị có kể cho em là chị bắt đầu cho nó ăn đồ ăn đặc chưa?” Chị ấy ngắt lời lần nữa.

“Có, Fliss. Em chắc là chị đã nói.”

Felicity, trở thành Người hay nói dớ dẩn về trẻ con bự nhất thế giới, kể với tôi mọi điều về Olivia - sự phát triển của con bé, trí óc nhanh nhạy của con bé, sự tăng cân, mọc tóc, vẻ xinh xắn vượt trội của con bé so với những đứa bé khác mà chị ấy biết - và về niềm vui không giới hạn khi được làm mẹ. Chị ấy không làm như thế vì tự mãn - chị ấy là một người tử tế và tốt bụng - nhưng chị ấy không thể làm khác bởi vì chị ấy quá hạnh phúc. Và vì ba chúng tôi rất gần gũi, và vì Hope và tôi không có con - Hope chưa bao giờ muốn có con - Fliss muốn chia sẻ tất cả với hai chúng tôi. Chị ấy xem nó như một món quà dành cho những cô em gái không có con của mình, lôi chúng tôi vào mọi chi tiết nhỏ nhặt của Olivia. Và mặc dù ý định của chị ấy là tốt, đôi khi nó vẫn khiến tôi nổi giận. Phải, thành thật mà nói, nó có thể... tác động đến tôi. Nhưng bất cứ khi nào như thế, tôi chỉ cần nhắc mình nhớ rằng chị ấy phải trải qua những gì để có một đứa con. “Chị sẽ bước đi trên kính vỡ,” chị ấy từng nói với tôi, trong nước mắt. “Chị sẽ bước đi trên kính vỡ nếu cần phải như vậy.” Và theo một khía cạnh nào đó, đó là điều chị ấy đã làm, bởi vì chị ấy đã phải mất mười năm và sáu lần trị liệu sinh sản thất bại. Thực tế rằng chị ấy là một cô giáo Montessori[10] chỉ làm sự thất vọng của chị ấy tồi tệ hơn.

[10] Montessori là một trong những phương pháp giáo dục trẻ con dựa trên sự nghiên cứu và kinh nghiệm của bác sỹ và cô giáo người Italy Maria Montessori (1870-1952). Mục tiêu của phương pháp này là quan sát thực nghiệm trẻ con để tìm hiểu, duy trì và hỗ trợ những tiềm năng tự nhiên của trẻ nhỏ. Vai trò của thầy cô giáo Montessori là theo dõi môi trường xung quanh và loại bỏ bất kỳ cản trở nào có thể can thiệp đến quá trình phát triển tự nhiên của trẻ. (ND)

Chị ấy thử mọi cách để tăng cơ hội của mình - yoga, bấm huyệt, châm cứu và thôi miên. Chị ấy hoàn toàn bỏ qua chế độ ăn kiêng. Chị ấy sắp xếp lại đồ đạc trong nhà theo phong thủy - cứ như là di chuyển đồ đạc xung quanh cũng có thể có ích! Chị ấy bỏ rượu, cà phê và trà. Chị ấy thậm chí thay cái răng hàn bạc thành nhựa tổng hợp. Chị ấy tham gia vào một cuộc hành hương đến Lourder. Cuối cùng, khi ba mươi tám tuổi, hoàn toàn bất ngờ, chị ấy thụ thai. Giờ cuối cùng đã được làm mẹ, Felicity say mê một cách cuồng nhiệt vương quốc trẻ thơ thiêng liêng - chị ấy yêu từng tiếng ợ, từng tiếng bi bô, từng tiếng hét.

“Còn món khoai lang như thế nào?” Tôi lịch sự hỏi thăm.

“À, nó chiếm một phần khẩu phần ăn - em nên nhìn thấy nó cau cái khuôn mặt bé nhỏ lại trong lần đầu tiên - nhưng giờ nó thích món đó, phải-không-con-gái-bé-nhỏ-xinh-đẹp-quý-báu-của-mẹ?” chị ấy thêm vào. “Chị trộn thêm một chút bí ngòi.”

Tiếp đó nổ ra một tràng về những nguy cơ khi cho trẻ con ăn quá nhiều cà rốt vì chúng không thể tiêu hóa được vitamin A và da sẽ chuyển thành màu da cam sáng, tiếp theo là một bài giảng khác về thảm họa môi trường của những loại bỉm dùng một lần - một chủ đề mà Felicity bị ám ảnh.

“Chúng đang tràn ngập mặt đất của chúng ta,” chị ấy nói một cách dữ dội. “Chuyện này thật kinh tởm - tám triệu miếng một ngày - và chúng không bao giờ bị phân hủy bởi vi khuẩn, bởi vì có chất gel. Hãy tưởng tượng xem, Laura, sau năm trăm năm, con cháu của Olivia sẽ vẫn phải cố gắng giải quyết lượng bỉm con bé đã dùng! Đó không phải là một ý nghĩ khủng khiếp hay sao?”

“Ừ. Vậy chị đang sử dụng loại tã vải à?”

“Chúa ơi em đùa à - quá phiền phức, không kể đến mùi hôi. Không, chị đang bắt đầu sử dụng bỉm không có chất gel của Eco-Bots - Chị mua nó từ cửa hàng Fresh and Wild. Chúng rất thân thiện với môi trường, ngoại trừ hơi đắt một chút.”

“Bao nhiêu?”

“45 xu một chiếc.”

“45 xu một chiếc? Ồ!” Tôi nhẩm nhanh trong đầu. Chẳng phải trẻ con trung bình cần thay bỉm sáu lần một ngày sao. Vậy là 2,7 bảng, nhân với 7 là 18,90 bảng một tuần, nhân với năm mươi hai tuần tương đương với... 980 bảng hơn hoặc kém, nhân với thời gian trung bình dùng bỉm là hai năm rưỡi, vậy là khoảng 2.500 bảng. “Hugh tội nghiệp,” tôi nói.

“Ừm, anh ấy không buộc phải bỏ việc, đúng không?” chị ấy cáu kỉnh cãi lại.

“Ừm, em cho là thế.”

Tôi thích Hugh - chồng của Felicity. Anh ấy là một người đàn ông tốt bụng, khá hấp dẫn và vô tư - nhưng tôi hơi cảm thấy tiếc cho anh ấy. Anh ấy đã làm việc cho Orange, rất thành công, nhờ thế họ có thể mua nhà ở Đường Moorhouse. Nhưng vào ngày Felicity ngây ngất chỉ cho anh ấy cái vạch thứ hai trên que thử thai, anh ấy tuyên bố vừa từ chức. Trong nhiều năm anh ấy đã muốn theo đuổi một sự nghiệp hoàn toàn khác hẳn. Cho đến nay giấc mơ viển vông của anh ấy tiến triển không được tốt lắm.

“Phát minh của ông bố thế nào rồi?” tôi hỏi khi xe ô tô rẽ vào cổng bãi đỗ xe của trường quay. “Đã có gì sáng kiến nào sắp thành công chưa?”

Một tiếng thở dài cáu kỉnh. “Tất nhiên là không - em nghĩ gì chứ? Tại sao anh ấy không thể kiếm cho mình một công việc đúng đắn lần nữa, chị không biết nữa, hay ít nhất phát minh ra cái gì đấy có ích, như bánh xe chẳng hạn!”

“Dù sao thì Fliss, em phải thôi đây, em vừa đến nơi - hôm nay chúng em ghi hình.”

“Ừ, chúc may mắn. Và tối nay chị sẽ xem - nếu Olivia ngủ.” Và sau đó chị ấy bắt đầu kể cho tôi việc đã cố gắng rèn Olivia không thức dậy vào lúc bốn giờ sáng như thế nào và chị ấy phải làm gì để nó ngủ lại và tôi đang nghĩ, Tại sao chị không chịu thôi đi? Tại sao chị không ngừng nói về con bé? Phải, con bé là một đứa bé rất đáng yêu và em yêu nó rất nhiều, nhưng hôm nay em thực sự không muốn biết thêm chút nào về con bé, cám ơn, Fliss, bởi vì hãy đối diện với nó, con bé là con chị, đúng không, con bé là con chị, không phải con em - là lúc Felicity đột ngột nói, theo cách bốc đồng của riêng chị ấy mà chưa bao giờ không làm tôi xúc động, “Em biết không, Laura, chị thật tự hào về em.”

“Cái gì?”

Cơn tức giận của tôi tan như sương và tôi cảm thấy nước mắt châm chích sau mắt tôi.

“À, chị chỉ nghĩ rằng em thật tuyệt vời. Ý chị là, chị cứ đang huyên thuyên về Olivia, khiến em chán chết đi được...”

“Ồ... không,” tôi yếu ớt nói. “Thật đấy...em -”

“Nhưng hãy nhìn vào những gì em đã đạt được! Cách em đối diện với mọi chuyện - tất cả những điều tồi tệ chết tiệt và những thứ mà cậu ta gây ra. Việc chia tay không-quá-thân-thương đấy,” chị ấy mỉa mai nói thêm, bởi vì chị ấy luôn quy kết về Nick như thế, khá là u tối. “Nhưng em đã kéo mình lên khỏi tất cả những khó khăn ghê gớm mà cậu ta để lại, và - Chúa tôi - hãy nhìn em bây giờ! Cuộc sống của em sẽ trở nên thật khó tin và sáng lạn, và, từ hôm nay, em sẽ trở thành một người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng.” Nghe đến đấy, tôi cảm thấy trái tim mình chùng xuống. “Và,” chị ấy tiếp tục với vẻ dứt khoát mãn nguyện, “em sẽ gặp gỡ ai đó khác!”

“Và sống hạnh phúc mãi mãi về sau,” tôi chế nhạo lẩm bẩm khi mở cửa xe. “Trong một ngôi nhà nhỏ sơn trắng với những bông hoa hồng màu hồng quanh cửa và một cái tạp dề Cath Kidston và hai...con chó giống Labradors, không nghi ngờ gì.”

“Ừm, thực ra, chị chắc rằng em có thể làm vậy. Chỉ cần em cho phép mình.” Felicity nói thêm với vẻ nhiệt tình tốt bụng thường lệ. “Dù sao, ngày mai hãy ghé qua sau giờ làm và chúng ta có thể nói chuyện - chị đã không nhìn thấy em lâu lắm rồi - và em có thể bế Olivia. Con bé thích thế - đúng-không-con-gái-yêu-bé-bỏng?” chị ấy nói với giọng nữ cao. “Con-thích-được-Dì-Laura-ôm-con-đúng-không-con-yêu?” Tôi có thể nghe Olivia o e phía sau. Nó khía mạnh vào trái tim tôi.

“Ok, em sẽ ghé qua.”

Tôi hít hai hơi thở sâu để trấn tĩnh lại sau đó nhìn vào đồng hồ, một giờ hai mươi lăm và buổi ghi hình sẽ bắt đầu lúc hai giờ. Tôi chạy vào trong, bấm thang máy lên tầng năm và đi thẳng đến phòng trang điểm nhỏ. Marian, thợ trang điểm, nhìn tôi đầy khen ngợi.

“Áo khoác đẹp đấy,” cô ấy nói. “Rất hợp.” Chết cô nhé, Nerys, tôi nghĩ. “Nhưng tôi không chắc chắn về màu xanh. Ồ. “Nó khiến da cô hơi xanh xao. Đây...” cô ấy túm lấy một chiếc áo hồng be từ giá treo trong tủ quần áo. “Tôi nghĩ cái này sẽ đẹp hơn.” Trước sự ngạc nhiên của tôi, đúng thế. Ồ ừm, Nerys rõ ràng cũng đúng về vài thứ, tôi rộng rãi quyết định khi cài khuy áo. Ít nhất là những điều nhỏ nhặt. Bây giờ, Marian đang gạt tóc tôi lên, và đánh phấn nền lên má tôi, adrenaline bắt đầu cháy trong mạch máu tôi. Qua hệ thống tăng âm tôi có thể nghe những tiếng thì thầm và tiếng cười khúc khích của khán giả trường quay khi họ được đưa đến chỗ ngồi. Sau đó tôi nghe Tom chào mừng họ đến với chương trình và giải thích rằng, mặc dù chúng tôi thu hình trực tiếp, nhưng khi phát sẽ có vài cảnh quay lại. Sau đó anh ấy yêu cầu họ không giơ tay, gây tiếng động hoặc ho, mặc dù việc gian lận trong chương trình này thực sự là không thể.

“Và làm ơn đừng nói to ra câu trả lời!” Tôi nghe anh ấy nói. Có vài tiếng cười khúc khích. “Bạn có thể cười, nhưng đã có chuyện đó xảy ra.”

Sau đó Ray, người phụ trách âm thanh của chúng tôi ló vào. “Em còn ba phút, Laura.” Anh ấy kẹp chiếc mic nhỏ xíu lên ve áo tôi, sau đó gắn bộ đàm vào sau áo khoác của tôi và đưa cho tôi tai nghe. “Thử hộ anh đi?”

“Chào, 1, 2, 3... Bữa sáng nay của tôi là bánh mỳ... và tôi đến trường quay muộn... và tôi vẫn chưa nhìn vào danh sách người chơi.” Tôi lục lọi trong túi để tìm nó lần nữa, trong khi anh ấy điều chỉnh lại vị trí của chiếc mic. “Nó ở nơi quái quỷ nào nhỉ?”

“Cám ơn Laura, em nghe tốt đấy.”

“Và bây giờ mong các bạn chào đón bốn người chơi của chúng ta!” Tôi nghe Tom nói qua loa phóng thanh. Khán giả nhiệt tình vỗ tay khi bốn người chơi xuất hiện. Tôi nghe tiếng chân họ bước lên cầu thang gỗ.

“Họ như thế nào?” Tôi hỏi Marian khi tôi nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu của mình. Cô ấy đã trang điểm cho họ trước khi trang điểm cho tôi. “Tôi không thể tìm thấy danh sách của mình, cô nói về họ cho tôi được không?”

“À, có hai người trông quê quê,” cô ấy trả lời khi chấm chấm kem che khuyết điểm dưới mắt tôi. “Những người sưu tầm các con số của đầu máy xe lửa. Du côn.”

“Bình thường thôi.”

“Và có một cô gái xinh đẹp khoảng hai mươi lăm tuổi, và, tôi phải nói rằng, một anh chàng cực kỳ đẹp trai. Tôi thực sự bị anh ấy lôi cuốn,” cô ấy nói thêm với một tiếng cười khúc khích. “Anh ấy làm tôi rất buồn cười. Đôi mắt tuyệt vời,” cô ấy kể lể khi chải mascara cho tôi. “Và rõ ràng là anh ấy khá là hào hứng về việc gặp cô.”

Tôi nhìn cô ấy. “Thật ư?”

Cô ấy vén một lọn tóc vàng-tro vào sau tai. “Ừ.”


“Tại sao?”

“Tôi thực sự không biết.” Cô ấy chọn một trong mười thỏi son dựng như những viên đạn trên giá của chiếc hộp kim loại. “Anh ấy nói với tôi rằng anh ấy mong đợi cuộc gặp đó như thế nào - vì vậy tôi cho rằng anh ấy thực sự là một người hâm mộ.”

Khi Marian trộn hai thỏi son lại với nhau trên mu bàn tay, tôi tiếp tục lục trong túi xách tìm danh sách ứng cử viên, nhưng vẫn không tìm ra nó. Chết tiệt.

“Nhìn lên nào, Laura,” Marian nói.

Khi cô ấy thoa son với một chiếc chổi nhỏ, sau đó bôi thêm son bóng, tôi nghe Tom đưa ra những lời khuyên thông thường cho những người chơi.

“Chắc chắn rằng các bạn nghe câu hỏi một cách rõ ràng,” anh nói. “Và đừng thốt ra điều đầu tiên nảy ra trong đầu bạn bởi vì, trong chương trình này, nếu bạn trả lời sai, bạn sẽ mất điểm. Vì vậy điều quan trọng là nghĩ trước khi bạn nói.” Sau đó, khi Maria nhanh chóng đánh thêm chút phấn hồng, rồi tô màu lên lông mày của tôi, tôi nghe Tom nói. “Ừ, tôi nghĩ chúng ta đã sẵn sàng.”

“Cô đã trang điểm xong chưa, Laura?” Tôi nghe Sara nói vào tai nghe.

“Rồi,” Tôi trả lời khi Marian xịt gôm lên tóc tôi.

“Ok, Tom, cô ấy đã sẵn sàng,” tôi nghe Sara nói thêm. “Bật nhạc khởi đầu đi.”

“Được rồi, đây là người dẫn chương trình Whadda Ya Know?!! ngày hôm nay - Lau-ra Quick!” Marian kéo chiếc áo khoác đen ra, sau đó tôi nửa đi nửa chạy vài thước xuống cầu thang dẫn đến trường quay và bước lên sân khấu. Khi tôi làm vậy và phút chốc bị lóa mắt bởi ánh đèn treo trên giàn cao. Tôi nhận thấy sức nóng của nó, mùi dầu, và Tom giang rộng tay phải về phía tôi để chào đón. Sau đó anh quay sang khán giả, đưa cả hai tay trên đầu và khơi lên một tràng vỗ tay. Tôi nhìn họ và mỉm cười. Khi anh bước khỏi sân khấu, tôi liếc nhìn hành lang phía sau hậu trường. Đứng đó, đằng sau tấm gương, là Sara, người sản xuất chương trình, và trợ lý sản xuất, Gill. Bên cạnh Gill, tôi có thể nhìn thấy Dylan với cặp tai nghe, sau đó là người lồng hình ảnh và đội kỹ thuật. Khi tiếng vỗ tay giảm dần, tôi quan sát sân khấu - bốn cột sáng xanh với nhiều độ cao khác nhau ở một bên; dấu hỏi màu hồng cỡ đại ở giữa sàn; ở phía sau, tên của chương trình thể hiện bằng những chữ cái to màu xanh lá uốn lượn; một chiếc đồng hồ màu vàng vĩ đại. Tất cả mọi thứ đều hào nhoáng một cách cố ý. Và đứng trước tôi, đằng sau bục điện tử, là bốn người chơi. Không hề nhìn vào mặt họ, tôi mỉm cười.

“Chào mừng đến với buổi ghi hình ngày hôm nay,” tôi bắt đầu, trong khi mắt nheo lại trước ánh đèn sân khấu. Tôi đưa tay lên mắt. “Tôi chúc tất cả các bạn may mắn, và mong sẽ trò chuyện với các bạn sau đó nhưng, bây giờ, như Tom nói, hãy thả lỏng, và hơn cả là, hãy cố gắng và hưởng thụ.” Khi tôi liếc nhìn tên của họ trên bục điện tử, tôi nhận thấy rằng trong khi ba người họ trông có vẻ hồi hộp, một trong số họ đang mỉm cười. Sau đó tôi nhìn thấy anh ta mỉm cười với tôi. Bây giờ, khi ánh đèn đã được điều chỉnh, tôi có thể nhìn thấy anh ta rõ ràng. Tôi cảm thấy như thể mình đã lao xuống một cái hồ bị đóng băng.

“Được rồi, sẵn sàng bắt đầu nhé, Laura?” Tôi nghe Sara thì thầm khi tôi cố gắng che giấu tiếng thở hổn hển vô thức của mình bằng một tiếng ho đằng hắng - trong một phút tôi nghĩ mình sẽ ngất xỉu. Và đầu lưỡi tôi đã chực chờ thốt ra - “Ồ thực ra cô không thể bắt đầu được, Sara, bởi vì tôi đang vật lộn với sự thật rằng người bạn trai nghiêm túc đầu tiên của tôi đang đứng cách tôi chỉ có mười feet - người tôi đã không gặp trong mười hai năm và người đã làm tan nát trái tim tôi và người, nếu tôi thành thật với chính mình, tôi thực sự chưa bao giờ quên được.”

“Đếm ngược nhé, Laura,” tôi nghe cô ấy nói. “5... 4... 3... 2... 1 và... nhạc bắt đầu!” Tôi nghe thấy nhạc hiệu vui vẻ của chương trình, sau đó khán giả ào lên vỗ tay.

Cảm nhận rõ ràng tiếng đập dồn dập trong ngực, tôi quay về phía camera. “Chào mừng đến với Whadda Ya Know?!!,” Tôi bắt đầu với lòng tự tin nhiều nhất tôi có thể gom góp. Bây giờ, khi màn hình cuộn xuống, tôi cảm thấy không những quá lạnh mà còn nóng rực. “Tôi là Laura Quick và tôi sẽ đặt câu hỏi tối nay, nhưng trước tiên, hãy để tôi giải thích quy tắc của chương trình. Trong tay tôi, ở đây, là những câu hỏi.” Tôi giơ những tấm thẻ lên. “Tất cả những câu hỏi đều để mở cho người chơi nào bấm chuông trước trả lời. Nhưng một khi người chơi đã bấm chuông thì họ phải trả lời - và họ chỉ có năm giây. Bây giờ, nếu các bạn nhìn vào màn hình trước bục, bạn sẽ thấy rằng chúng đều khởi đầu với một bảng. Số tiền này sẽ nhân đôi với mọi câu hỏi đúng khi chúng ta nghe được tiếng này...” Một tiếng Ker-ching to! giống như tiếng chạy vèo vèo của một máy đếm tiền khổng lồ. “Tuy nhiên, nếu họ đưa ra câu trả lời sai, hoặc không trả lời được trong vòng năm giây, thì số tiền của họ sẽ bị chia đôi, và chúng ta nghe thấy tiếng này...” Có một tiếng Whooooop! giảm dần. Người thắng cuộc sẽ là người tích lũy được số tiền cao nhất. Anh ấy hoặc cô ấy sẽ có cơ hội để nhân đôi nó, nếu họ quyết định Xoay chuyển Vị trí - và hỏi tôi một câu hỏi. Nhưng điều này mang theo một nguy cơ. Nếu tôi trả lời sai, số tiền của họ nhân gấp đôi.” Ker-ching! “Nhưng nếu tôi trả lời đúng thì số tiền sẽ bị chia đôi!” Whooop! Vì vậy, không chần chừ gì thêm nữa, hãy gặp bốn người chơi của chúng ta hôm nay.”

Tôi quay lại với những người chơi khi họ tự giới thiệu, giống như kiểu của University Chanllenge. Tôi liếc nhìn Luke, âm thầm đá mình một lần nữa vì đã để mất tờ danh sách - ít nhất tôi sẽ ít sốc hơn.

“Thả lỏng nào Laura,” tôi nghe Sara thì thầm vào tai nghe. “Cô trông rất căng thẳng.” Tôi làm dịu vẻ mặt nhăn nhó như khỉ của mình thành một nụ cười chuyên nghiệp. “Tốt hơn rồi. Và đừng có nhanh nhảu quá.”

“Tôi là Christine Schofield,” Tôi nghe người thứ nhất nói. Giống như Marian đã miêu tả, cô ấy có mái tóc vàng và quyến rũ. “Tôi sống ở York và tôi là một giáo viên.”

“Tôi là Doug Dale,” người tiếp theo nói. Anh ta là một trong những người sưu tầm các con số của đầu máy xe lửa - gần năm mươi tuổi, râu quai nón, đầu hói và trông như thầy tu với một cặp kính vuông to bự. “Tôi đến từ Isling và tôi viết các báo cáo kinh doanh.” Đứng bên cạnh Doug làm Luke trông thậm chí hấp dẫn hơn, với gò má tinh tế và mái tóc quăn đen, ôm lấy phía trên cổ áo. Tất cả biểu hiện của thời gian là những đường kẻ chân chim bên dưới đôi mắt của anh ấy. “Tôi là Luke North,” anh nói với một nụ cười mỉm ngập ngừng. “Tôi là nhà môi giới nghệ thuật và tôi sống ở Tây Luân Đôn.”

“Chào, tôi là Jim Friend,” người chơi tiếp theo là một người đàn ông cao, gầy khẳng khiu khoảng năm mươi lăm tuổi nói. “Tôi là một sinh viên đã tốt nghiệp và đi làm, học ngành tâm lý học, và tôi sống ở Bedford.” Một tràng vỗ tay lịch sự khác rộ lên. Tôi giơ những tấm thẻ lên. Một sự im lặng bắt đầu.

“Được rồi. Bắt đầu nào. Câu hỏi đầu tiên. Tên La Mã của thành phố Bath là gì?”

Bục của Doug Dale nháy đèn vàng khi anh ta bấm chuông trước. “Sulis.”

“Chính xác là, Aquae Sulis - nhưng tôi chấp nhận câu trả lời đó.” Kerching! “Loại quả nào được sử dụng để tạo hương vị cho rượu gin? Christine.”

“Quả bách xù.”

“Đúng.” Ker-ching! “Thủ đô của Liberia là gì? Luke?”

“Đó là Monrovia.”

“Đúng.” Ker-ching! Thật kỳ lạ, tôi nghĩ, rằng lời đầu tiên Luke nói với tôi trong mười hai năm không phải là “Chào, Laura,” hay “Gặp lại em thật tuyệt,” hoặc thậm chí là, “Anh xin lỗi đã làm em tổn thương quá nặng nề,” mà là “Đó là Monrovia.”

“Nền văn minh thời kỳ Đồ đồng nào có nguồn gốc từ Đảo Crete?”

“Nền văn minh Minoans,” Jim đáp một cách chính xác. Kerching! Bây giờ họ đều đã có hai bảng.

Tôi nhìn tấm thẻ câu hỏi tiếp theo. “Kênh đào nào, đánh vần ngược lại, thành tên của một vị thần Hy Lạp?” Luke bấm chuông trước.

“Suez.”

“Chính xác.” Kerching! “Hiển nhiên, đánh vần ngược lại thành Zeus. Ai, trong năm 1700, viết cuốn The Way of the World?”

Doug Dale bấm chuông trước. “Congreve.”

“Phải. William Congreve.” Kerching! “Dòng họ hoàng gia nào của Pháp đã được dùng đặt cho một loại bánh quy? Christine?”

“Nice,” cô ấy tự tin nói. Whooooop!

“Không - đó là Bourbon.” Hai bảng của cô ấy giảm xuống còn một bảng. “Edgehill là trận chiến mở màn của cuộc chiến tranh nào? Luke?”

“Nội chiến.”

“Chi tiết hơn.”

Trong phút chốc anh trông như bối rối và tôi nhận thấy chiếc kim giây ồn ào di chuyển về phía trước trên đồng hồ.

“Ồ, Nội chiến của Anh.”

“Phải.” Kerching! “Ai là vị thần lửa của La Mã? Doug?”

‘Prometheus?’

“Không phải.” Whooooop! “Ông ta trộm nó từ các vị thần - đó là Vulcan. Tên thông dụng cho dung dịch của Natri clorua hòa tan trong nước là gì? Christine?”

“Muối.”

“Chính xác.” Kerching! “Nước Nam Mỹ nào được đặt tên theo tên một thành phố của Italia? Doug?”

“Argentina.” Whooooop!

“Không phải - đó là Venezuela, đặt tên theo Venice.”

“Nghĩa của từ ‘dê’ là gì? Luke?” Anh ấy đang cười vì lý do nào đó.

“Dâm đãng,” anh nói chắc chắn.

“Đó là một câu trả lời đúng.” Kerching! “Giống như từ ‘đồng bóng,’ tôi nói thêm. “Xuất phát từ tiếng Latin, ‘hành động kỳ cục’.”

Và chương trình tiếp tục. “Ai là người phụ nữ đầu tiên bay qua Đại Tây Dương?... Không, không phải Amy Johnson.” Whooooop! “Đó là Amelia Earhart... Con duiker là con gì? Đúng vậy, Jim - một con linh dương nhỏ.” Kerching! “Năm vòng tròn Olympic đại diện cho...? Không ai trả lời câu hỏi này sao? Năm châu lục của thế giới. Ai khám phá ra nguồn của sông Nile? Không - không phải Livingstone.” Whooooop! “Đó là Speke. Con số La Mã nào đại diện cho một nghìn? M là chính xác, Doug.” Kerching! “Hoggerel là con gì? Không đúng.” Whooooop! “Nó là con cừu một năm tuổi. Cuốn sách nào bán chạy nhất thế giới? Luke? Chính xác. Kinh thánh.” Kerching! “Hành tinh nào có bầu trời màu hồng? Sao Hỏa là đúng, Jim.” Kerching! “Người mắc chứng Leukophobia sợ màu nào? Doug? Không phải.” Whooooop! “Không phải màu vàng, là màu trắng...” Và trong suốt thời gian tôi đang đưa ra câu hỏi, nhận thấy điểm số nhân đôi và chia đôi, gia tài của những người chơi lên xuống như trò chơi yo-yo, trong tâm trí tôi nhóe lên hình ảnh Luke và tôi nằm trên bãi cỏ trường đại học bên dưới một cây sồi xù xì khổng lồ; lượn xe đạp quanh Cầu Clara; ngồi cùng một chiếc bàn trong thư viện, bàn chân khẽ chạm vào nhau; hay cuộn vào nhau, như dây thừng, trên chiếc giường hẹp của Luke.

“Còn năm phút,” tôi nghe Sara thì thầm vào tai. “Nó đang diễn ra thật tuyệt.” Khi tôi lật qua tấm thẻ tiếp theo, tôi liếc nhanh điểm số lần nữa. Doug Dale đang dẫn đầu với 4.096 bảng, có nghĩa là anh ta đã có mười hai câu trả lời đúng, trong khi Luke kém hơn một câu với 2.048 bảng và Christine và Jim đang trượt xuống dưới hàng trăm vì họ đã trả lời một cách liều lĩnh. Tôi cảm thấy khán giả đằng sau tôi, im lặng và tập trung.

“Biểu tượng con vật nào nằm trên cờ của Bang California?”

Một giây im lặng, sau đó Doug bấm chuông. “Chim đại bàng?” Whooooop! Anh ta nhăn mặt với vẻ cáu kỉnh.

“Không, tôi rất tiếc - đó là con gấu.” Giờ thì anh ta và Luke bằng điểm.

“Còn ba phút nữa,” tôi nghe Sara nói. Tôi nhìn vào câu hỏi tiếp theo.

“Có bao nhiêu lá bài trong một bộ bài Tarot?”

“Bảy mươi tám,” Luke nói.

“Chính xác!” Kerching! Điểm của anh ấy gấp đôi thành 4.096 bảng.

“Hai phút, Laura,” Tôi nghe Sara nói.

Tôi nhìn vào tấm thẻ tiếp theo. “Họa sĩ nào đã thiết kế đồng phục của đội vệ sĩ của Giáo hoàng, Quân đội Thụy Sĩ?” Luke bấm chuông lần nữa, nhưng sau đó câu trả lời dường như lẩn tránh anh ấy. Anh ấy nhắm mắt lại một lúc trong khi cố nhớ ra, và tôi nhận thấy kim giây, leng keng tiến về trước. Anh ấy chỉ còn ba giây... 2... 1... Anh ấy sẽ mất bốn nghìn bảng.

“Michaelangelo,” Anh ấy thốt lên. “Đó là Michaelangelo.”

“Chính xác.”

KERASHHHHH!!! Tiếng chuông lớn báo hiệu kết thúc trò chơi, Luke đã vượt lên trước bằng một câu trả lời. Anh ấy trả lời đúng mười ba câu, có nghĩa là anh ấy có 8.192 bảng.

Tôi quay sang Camera 1. “Hãy nhìn vào những điểm số. Đứng ở vị trí thứ tư là Jim với 512 bảng, thứ ba là Christine với 1.024 bảng. Doug đứng ở vị trí thứ hai với 2.048 bảng. Nhưng người chiến thắng của tuần này - với 8.192 bảng - là Luke North!” Khán giả vỗ tay ầm ĩ và anh ấy mỉm cười. “Nhưng vẫn còn chưa xong,” tôi thêm vào, “bởi vì bây giờ là lúc Xoay chuyển Vị trí. Câu hỏi là, Luke... Anh có muốn tham gia hay không?” Tôi quay về phía khán giả. “Bao nhiêu người trong số các bạn nghĩ rằng Luke nên tham gia phần Xoay chuyển Vị trí? Nếu anh ấy làm thế, anh ấy sẽ mạo hiểm với 4.000 bảng. Mặt khác, anh ấy có thể thắng thêm 8.000 bảng. Vì thế bây giờ mời tất cả các bạn cho biểu quyết?” Họ ấn vào tấm bảng biểu quyết gắn ở lưng ghế, và kết quả hiện lên trên màn hình plasma lớn.

“Sáu mươi tám người trong các bạn nghĩ anh ấy nên làm,” tôi nói, “với một trăm mười người tin rằng anh ấy nên bằng lòng với những gì đang có.” Tôi quay sang Luke. “Khán giả rõ ràng nghĩ rằng anh nên từ bỏ lúc này, Luke, nhưng anh muốn làm gì?”

“Tôi muốn chơi phần Xoay chuyển Vị trí.”

“Anh chắc chứ?”

“Có,” anh nói với một nụ cười mỉm. “Tôi rất chắc.”

“Ok.” Tôi quay sang camera. “Nếu tôi không thể trả lời câu hỏi của Luke - trong năm giây thông thường - thì số tiền thưởng của anh ấy sẽ tăng gấp đôi. Nếu tôi có thể, thì nó sẽ chia đôi. Nhưng tôi đảm bảo với các bạn đang ở nhà, và ở đây trong trường quay, rằng tôi không hề biết trước anh ấy sẽ hỏi tôi điều gì. Được rồi, Luke. Bắt đầu đi.”

Anh ấy kéo một mẩu giấy ra khỏi túi. Tôi cầu mong anh ấy không đưa ra câu hỏi nào đó về nhạc pop - không phải lĩnh vực hiểu biết nhất của tôi - hay bóng đá. Tôi gồng mình.

“Được rồi...” anh ấy bắt đầu. Có một tiếng trống ùa lên. “Điều tôi muốn hỏi cô là...” Anh ấy dừng lại, sau đó đằng hắng giọng. “Ừm...” Anh ấy lướt một ngón tay run run dưới cổ áo. “Được rồi... Thì đây. Câu hỏi của tôi...” anh ấy nhìn tôi. “Câu hỏi của tôi... là... ừm...” Vấn đề của anh ấy là gì? “Em sẽ ăn tối với anh vào dịp nào đó chứ?”

Khán giả im lặng sững sờ, sau đó cười khúc khích vẻ hồi hộp.

“Anh ta đang chơi trò quái quỷ gì thế?” Tôi nghe Sara càu nhàu.

Đến giờ hầu hết khán giả đều phá lên cười, và Luke cũng vậy.

“Em sẽ ăn tối với anh chứ, Laura?” anh ấy nhắc lại. “Đó là câu hỏi của anh?” Nhưng tôi không có cơ hội để trả lời nó, bởi vì vào lúc đó Tom hét lên. “Cắt!”


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui