Khi một chiến binh thằn lằn sừng Moloch xuống ngựa, La'ahad nắm chặt tay Rikamathra, vì cô ấy có thể giết bất kỳ mối đe dọa nào chỉ cần họ đến đủ gần. Đó là một người đàn ông trẻ có đôi mắt sâu và hốc mắt thâm quầng như bất kỳ người nào đã tận tụy ruổi ngựa dọc bờ cát. Đuôi mắt phải anh có vệt bột màu đỏ xổ dọc xuống má như máu bắn ra từ mắt con thằn lằn sừng. Anh vung gươm, nhảy bật lên và bổ mạnh xuống đỉnh đầu cô gái nhỏ. Nó để lại vết rạch nhỏ rướm máu trên khóe mắt phải cô gái không bỏ chạy. Anh giắt gươm trở lại thắt lưng, đến những chiến binh khác giắt gươm về thắt lưng và xuống ngựa. Họ đều dùng đôi bàn tay trần kết dấu chào hữu nghị. Ngón trỏ và ngón cái bàn tay phải nắm ngón cái bàn tay trái, siết những ngón còn lại, giơ ngang ngực:
"Aklayimaan!"
Điều đó nói rằng gia đình bản địa luôn chào đón những người anh em trở về. Người anh em đã để lại vết rạch nông trên má người anh em khác tháo khăn rằn bịt mặt. Sau khăn rằn đỏ là bộ mặt khắc khổ đang nở nụ cười hiền lành. La'ahad dang hai tay, để anh nhấc bổng cô khỏi mặt đất.
"Anh đã luôn tự hỏi hai anh em bán trầm hương đã đi đâu. Không có trầm hương, thương đoàn Ab'qatharmunru tan rã, anh phải trở lại bộ tộc của mình. Hóa ra, La'ahad nhỏ bé đi tìm Hira Tostearad – người canh giữ những cây trầm hương đắt đỏ. Và rồi thần Shams vĩ đại đã đưa em đến với Moloch. Kể cho bọn anh nghe, bây giờ em đã tìm thấy điều em muốn chưa?" (1)
"Người mang theo túi trầm hương rải vụn trầm trên đường anh ấy đi. Chúng dẫn tới ngôi nhà lớn của những chiến binh Moloch. Em chỉ đang nhìn thấy một người anh thằn lằn sừng khoe khoang cái sừng của anh ấy. Đó là Arol hợm hĩnh!" (2)
"Nào, đó là cách chào mừng đến với gia đình Moloch. Em phải có một vết máu giống tổ tiên. Chào mừng em và bạn hữu đến với Najzakhs!"
Người đàn ông tên Arol thả La'ahad xuống, nhường lối cho thủ lĩnh quân trinh sát đến chào lại lần nữa theo cách của phiến quân khăn rằn đỏ. Vị thủ lĩnh trông gấp đôi tuổi Arol, ông nhấc tay phải, áp ngón trỏ và giữa dọc theo đuôi mắt. Cô gái nhỏ lặp lại động tác. Ông gật đầu, cúi xuống cho cô cái vỗ lưng nhanh, đó là dấu hiệu thân thiện.
Những con ngựa bản địa không ghét ranh giới Gumaunten-Najzakhs. Đội quân tuần tra Moloch tách riêng một nhóm nhỏ vượt qua lằn ranh để đón Demonio ở bờ bên kia. Anh bị kiệt sức vì mất nước. Họ đã được cảnh báo anh ta có da trắng và mắt đỏ rực. Nhưng vị thủ lĩnh phiến quân chỉ nói vợ ông là người Ba Tư, con gái nhỏ nhất của ông có đôi mắt hai màu xám và nâu. Con quỷ cát nhỏ ấy sẽ khiến bất cứ con quỷ ác ý nào phải kinh hoàng. Shouduhud mù ngồi cùng ngựa chỉ ngửa cổ uống hết nước trong túi da dê, nó quan trọng hơn việc nói ra ý nghĩ hai con quỷ đồng nghĩa với gấp đôi phiền hà. Rikamathraa và La'ahad cưỡi cùng ngựa, bám sát ngay sau con ngựa của thủ lĩnh. Iruk Albar ngoan đạo giữ điều luật tránh xa người khác giới, ngồi riêng một con ngựa. Lúc trao dây cương, chiến binh Moloch đã nhìn cô như thể cô ấy là một con thằn lằn sừng bị người Otman nuôi trong lồng, cho ăn và để nó làm trò tiêu khiển. Con thằn lằn sừng đánh mất bản năng thần tự nhiên Karamr(3) ban tặng. Cô gái thuật sĩ chỉ ruổi ngựa theo đoàn người.
Mọi người du mục đều là thành viên của gia đình du mục lớn. Ở hoang mạc Najzakhs có cả người bản địa, người lai Otman, người ngoại quốc và nô lệ(4). Đế chế Othania cai quản Arabiapan, ném một phần dân bản địa ra hoang mạc Najzakhs khô cằn để đào đất sét, phần khác vào hầm mỏ trong lòng khối núi Ar Taijiyad. Nô lệ sinh ra lũ con lai có địa vị thấp kém. Họ là con người nhưng bị buộc vào số phận phải làm công việc lao động khắc khổ vĩnh viễn. Trong hơn 200 năm, từng nhóm nô lệ bạo loạn bỏ trốn khỏi tòa thành xám xịt để tham gia phiến quân cực đoan. Những phiến quân bắt nguồn từ những kẻ bị xếp ngang hàng với động vật, lấy loài động vật được tìm thấy ở nơi họ dựng căn lều đầu tiên làm vật tổ. Họ là người bản địa chiến đấu bảo vệ vùng cát của họ để bị gán tội phiến loạn. Hoang mạc không có nhiều nước và thức ăn. Theo thời gian, các bộ tộc tranh dành nguồn lương thực dần bất hòa như chính các loài vật tổ luôn đối nghịch giành sự sống.
---
Ngôi làng của chiến binh khăn rằn đỏ ở đúng vị trí được vẽ trên bản đồ quân đội Otman. Họ ở gần ranh giới Gumaunten-Najzakhs nhất và sẽ là thanh gươm đầu tiên chống lại đội quân đàn áp Najzakhs từ Gumaunten. Họ dựng hàng chục cái nỏ trăm tên bên ngoài bức tường cọc gỗ bao bọc ngôi làng. Sau vòng cọc gỗ đến vòng lều chiến binh và đến khu vực sinh hoạt dành cho người già, phụ nữ và trẻ em. Mọi nam giới cầm được một thanh gươm Scimitar tuốt trần đều ở khu lều chiến binh. Đội trưởng quân tuần tra nói nhóm của La'ahad sẽ ở khu sinh hoạt chung, trong căn lều tốt nhất đã được dựng sẵn chờ họ từ nửa năm trước. Nó là một cái lều lớn ngăn đôi, một nửa cho đàn ông và nửa còn lại cho phụ nữ.
Arol nói họ có thể hỏi mọi thứ trong lúc ăn tối cùng gia đình anh. Nhưng trước hết họ phải thay bộ quần áo bốc mùi. Dù không người Moloch nào bận tâm về đoàn người bẩn thỉu, họ chào mừng bằng động tác đặt hai ngón tay lên khóe mắt phải, ngay khi những kẻ lạ mặt xuống ngựa. Họ chào cả cô gái mắt xám giấu mặt sau khăn Nijre(6). Và Iruk Albar cũng tháo mũ trùm đầu đáp lễ bất cứ ai thiện tình, cô ấy sùng đạo nhưng không cực đoan như cha mình. Cô vi phạm điều luật mặc trang phục không chỉnh tề đối diện với người khác. Cô phá vỡ nhiều điều luật tự răn trên đường đến Najzakhs. Hơn cả điều thánh răn, điều cao cả nhất là đức hi sinh vì dân tộc Otman, mọi vi phạm phục vụ cho mục đích này đều được xếp vào trường hợp đặc biệt. Cô ấy biết phiến đá thiêng sẽ ân xá cho cô, nhưng vẫn còn nhiều điều phải trình bày dưới ánh sáng, trước người Otman. Đó là chuyện về sau. Một bà già Moloch cười nói tất cả có thể tắm ở cái giếng chung của người Moloch. Iruk Albar ngăn cô gái nhỏ và cô gái gốc Ai Cập, nhìn họ như điều kinh hoàng nhất cô từng thấy. Cô hỏi người đàn bà cái giếng dành cho phụ nữ và kéo họ khỏi đám đông người.
Demonio còn sống khi được tìm thấy. Người ta thấy anh làm dấu hiệu chào hữu nghị ngay từ lúc cả nhóm còn ở giữa ranh giới. Họ muốn giục ngựa đến đủ gần và xuống ngựa để chào đúng nghi thức, nhưng anh bạn da trắng bỗng bỏ chạy nhanh hơn bất kỳ kẻ kiệt sức thông thường nào. Nhanh như một bóng ma băng qua hoang mạc. Bỏ ngoài tai tiếng hô cảnh báo. Họ phải đuổi theo anh gần 1 dặm, bao vây và chỉ để xuống ngựa chào đáp lại. Không người đồng hành nào nhớ Demonio nhìn được rất xa nhưng chỉ thấy lờ mờ trong khoảng cách một thân cây cọ. Điều đó nói rằng cái nóng và mất nước tàn phá cơ thể nhiều hơn người ta tưởng, kể cả với người du mục đi nhiều.
---
Chú giải:
1. Lữ đoàn Ab'qatharmunru: Thương đoàn có trưởng đoàn là một người bản địa già tên Ab'qatharmunru. Trong quá khứ, vào tháng 7 - 8, cái tên "Ab'quatharmunru" dùng để chỉ một thương đoàn tập hợp người đại diện của các thương đoàn muốn mua một loại trầm hương duy nhất, chỉ bán ở một ngôi làng nhỏ nằm sâu trong sa mạc đỏ Akhmakar.
2. Arol (Từ Alqarn/ Hōn nghĩa là cái sừng): Arol là một chiến binh của bộ tộc thằn lằn sừng Moloch. Trong quá khứ, anh từng là lái buôn thuộc thương đoàn của ngài Ab'qatharmunru. Điều này dẫn đến một cuộc gặp giữa Arol và anh em Tostearad ở sa mạc đỏ Akhmakar.
3. Thần tự nhiên Karamr (Từ alkaram có nghĩa là Sự hào phóng): Một trong ba vị thần quyền năng nhất theo tín ngưỡng của người bản địa Arabiapan, bên cạnh thần mặt trời Shams và thần đại mạc Sahra.
Karamr là thần cai quản tự nhiên/thiên nhiên. Karamr có nguồn gốc từ vịthần cùng tên là Karamr, vị thần cổ xưa nhất và nguồn gốc các vị thần. Thần Karamr cổxưa là hóa thân của tự nhiên, có mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng, thân thể là lục địa, máu làsông biển, trí tuệ và cảm xúc tạo ra các vị thần. Karamr cổ xưa sở hữu mọi thứvà cũng cho đi mọi thứ. Thần tự nhiên Karamr cũng như các vị thần khác là mộtphần tách ra của Karamr cổ xưa, bản chất giống Karamr cổ xưa nhất nhưng ít quyềnnăng hơn rất nhiều.)
4. Người Otman áp đặt chế độ nô lệ ở toàn lãnh thổ Arabiapan. Người ký giao ước nô lệ phải từ bỏ quyền lợi của con người và bị xếp ngang hàng với súc vật.
5. Khối núi Ar Tairiyad (Dựa tên khu vực Ar riyad của bán đảo Ả Rập và cụm "Taiyō no kami no musume" nghĩa là con gái của thần mặt trời): Khối núi lớn gồm hàng trăm ngọn núi, chạy dọc khu vực trung tâm và lan đến gần bờ biển phía Đông Arabiapan. Phía Đông khối núi này đặt thành đô của người Otman Tahaldanja là thành Gumaunten. (Xem thêm Phần 1 - Chương 2)
6. Khăn Nijre (Từ khăn Niqab và từ Dire nghĩa là khiên): Nijre là một loại khăn mỏng bằng vải, thuộc trang phục bắt buộc dành cho phụ nữ theo đạo Chishamga. Khăn Nijre giúp che phủ toàn bộ khuôn mặt chỉ để lộ đôi mắt.
Đạo Chishamga (Tri giáo): Tôn giáo chính thống của người Otman. Đạo này tôn thờ Tri thức và vị thần đại diện cho sự hiểu biết hoản hảo nhất Saidanja. (Xem thêm Phần 1 – Chương 2)
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...