Những người ở Arabiapan tính ngày bằng cách đếm số lần mặt trời lên. Đã mười lăm lần mặt trời ở lưng chừng chân trời, nhóm lữ hành đã ở chỗ Nhà thông thái được nửa tháng. Vào ngày thứ hai, chủ nhà nhận lời cho họ xem những cuốn sách ông có về kinh Korad, cũng như chỉ dẫn họ một vài điều luật quan trọng. Ông nói rằng khách đến nhà là món quà của thượng đế, vì vậy ông tiếp đãi họ trọng thị và chân tình.
Mỗi buổi sáng, anh em Itraudra dùng một khúc cây gỗ trông giống lưỡi gươm Kata-sa(1) của các Parok, bổ vụn những tảng đá xỉ núi lửa theo nguyên tắc nhất định. Họ phải đứng thẳng lưng và ra đòn liên tục. Số tro vụn sẽ được Ciopodelamre mang xuống cho người dân ở Ensaldam. Họ trộn nó trong một hỗn hợp kết dính từ tro núi lửa, vôi và nước biển, tạo thành từng khối đá chắc để dựng nhà(2). Nó cùng loại với chất liệu của căn nhà của nhà thông thái Ý, mát mẻ vào ban ngày và ấm vào đêm. Amahr cũng nghiêm túc tập vung gươm bằng một công bút lông cọ. Không, anh ta tập viết chữ, ngay sau buổi tập đầu tiên. Không phải ai cũng có khiếu chiến đấu. Nhà thông thái nói rằng anh có thể làm tốt những việc cần sự kiên nhẫn của một tảng đá. Nếu họ chỉ học những điều cần để qua mặt người Otman, Amahr làm tốt việc viết chữ, vì anh đã có nhiều năm nhận biết mặt chữ Kajin(3) từ trước. Anh bạn vũ công có lượng lớn kiến thức trong nhiều năm đi theo đoàn cầu mưa, chúng hoàn toàn có ích trong những chuyến đi dài. Amahr dành gần như toàn bộ thời gian để học viết chữ, như một cách khẳng định có ích và đáng tin hơn vị khách du lịch có chiếc túi kì quặc. Anh vẫn canh chừng Yoal Layl. Người khách du lịch lấy một viên ngọc đỏ từ giá xếp của nhà thông thái, thả nó vào một lọ nước màu, và viên đá tan chảy. Thứ dung dịch trong lọ được đổ vào một khuôn bằng cát, rồi anh ta gõ phần cát và họ có một khay đựng mực. Anh đưa nó cho Amahr Awaalsasf, và bỏ đi chơi cờ cùng Ciopodelamre.
Phụ nữ phụ trách nấu cơm. Người Otman có cả 42 chương quy tắc về việc chế biến đồ ăn, gia vị, trình bày và dùng bữa, vì thế những cô gái phải học nó. Bên cạnh đó, có nhiều điều luật về trang phục và cử chỉ cho phụ nữ, họ bị hạn chế di chuyển vì luật người giám hộ. Vì vậy, La'ahad nói cô và Rikamathraa sẽ vào Kinh đô bằng tư cách những người vợ của Trưởng đoàn thương nhân- tức vai trò của Amahr. Cô gái nhỏ đã nắm vững những quy định thông thường, luật cho phép phụ nữ ra đường cùng chồng, nhưng phải mặc trang phục Nijut. Kinh Korad cho phép nam giới lấy nhiều vợ, và Amahr đã 28 tuổi, anh sẽ gây ngạc nhiên cho bất cứ ai đặt câu hỏi về gia đình. Yoal Layl sẽ làm đoàn phó. Họ có thể thông qua cổng Raemlamat(4) với cả 4 người.
Rikamathraa không phàn nàn bất kì điều gì. Cô đặt sáu đĩa thức ăn nóng hổi lên bàn, lúc cô quay người, đuôi tóc cắt một đường trong không khí như một lưỡi dao quắm. Tóc hai bên đầu của cô được bện thành từng hàng, buộc túm về sau. Dadru nói đó là cách buộc tóc của chiến binh, anh đoán cô ấy có vẻ là một Hakhaos(5), chỉ đoán thế, nhưng chưa bao giờ nhận được câu trả lời. Amahr nói họ sẽ hỏi Hira Tostearad làm thế nào anh ta có được lòng trung thành của một Hakhaos, dù không phải một Pharaoh. Đó là một cách động viên cô gái nhỏ. Amahr không tin tưởng Yoal Layl kể cả sau hai tháng đồng hành, nhưng ấn tượng tốt hơn với Rikamathraa,... dù cô xem những người còn lại trong đoàn như những tảng đá ken trên tường, trừ La'ahad.
Tất cả dùng đũa vào bữa ăn tối. Những món La'ahad nấu được bày trí theo luật của người Otman. Họ vẫn đang cố tập cách ăn món thịt cừu sống lát cơm.
"Ka maoom oocae de." (Nhờ ơn sự giàu có của đấng tối cao)
Dadru dùng đũa xiên miếng cà chua, thay vì gắp, đã quá chán nản với hai chiếc que liên tục trượt khỏi tay. Tay của anh quấn băng vải vì phải vung gươm gỗ liên tục, nó phồng rộp và nóng rát. Các cơ bắp tê rần khiến cử động vụng về. Anh hài lòng với phương pháp dùng đũa mới. Trong khi Jashar ổn và khỏe mạnh vì giãn cơ đúng cách mà Yoal Layl chỉ. Một lần nữa, người khách du lịch làm quen nhanh với mọi thứ mới, và gắp thức ăn cho La'ahad bằng tay trái. Việc Rikamathraa ngồi bên phải cô gái nhỏ không quá gây trở ngại. Amahr buộc phải ngồi giữa anh em Itraudra để ngăn họ tạo ra rắc rối, bằng trò lố của họ. Ví dụ hôm nay họ đã nhờ Ciopodelamre thay lúa mạch đen trong bữa tối bằng đậu đũa, và thay đèn dầu bằng nến sáp ong(6). Nhà thông thái Ý nói rằng chúng làm ông nhớ đến những bản tình ca của xứ Venice(7).
Người Ý già hát đệm bằng đàn Oud, giọng ông trầm ấm. Đó là lúc bữa cơm yên lặng nhất. Nhưng La'ahad có vẻ còn quá nhỏ, cô từ tốn ăn cơm và nhận mọi thức ăn được gắp vào bát. Amahr từ chối uống rượu vang, để ngồi cạnh La'ahad đúng vị trí thông thường bên rìa vách đá, quan sát sự di chuyển của những đoàn binh Parok. Họ thấy hàng dãy vạc than sáng kéo dài mãi như dấu chân của con lạc đà khổng lồ Alait(8).
"Em nghĩ một tuần nữa chúng ta sẽ sẵn sàng để xuống Ensaldam. Sẽ mất một khoảng thời gian nữa để có một thương đoàn. Chúng ta sẽ đến lễ hội Aalkl(9), ở đó, anh có thể trở lại làm một vũ công, cùng anh Jashar và anh Dadru. Anh trông buồn trong bữa tối.
Amahr rất yêu thích các bước nhảy, em nhìn thấy điều đó. Anh đã có những vũ điệu rất tốt."
"Điều đó làm mọi người vui, vì vậy anh vui."
"Em hiểu."
Amahr đã trả lời trong khi luôn nhìn Ensaldam. Nó trông giống một đống lửa lớn. Đó là một cuộc trò chuyện thông thường sau đó. Anh chỉ chợt nhận ra cô gái nhỏ đã hiểu lầm cảm xúc trong bữa tối là sự thất vọng. Cô ấy thấy có lỗi vì đã tách những nhạc công khỏi Due' rahma. Họ có tất cả những dấu hiệu ám chỉ trong bữa tối, nhưng đó chỉ là trò đùa của anh em Itraudra. Điều đó tồi tệ. Lần đầu tiên, anh nhấc tay và đặt nhẹ lên mái tóc dày của La'ahad.
"La'ahad, anh sinh ra ở Samak(10). Gia đình anh có 14 người. Bọn anh từng sống ở gần phía tây Haub(11). Anh là con thứ 7, việc của anh chỉ là cùng hai đứa em Aquam và Alsayarat trông bãi cá phơi khỏi mèo và lũ chim. Bọn anh bán cá, cả trang sức làm từ vỏ sò cho thương nhân. Nhưng rồi người Otman tìm ra bọn anh, bọn anh có một lãnh chúa và phải đóng đủ thứ thuế. Em có từng nghe đến thuế Ho-reii(12) không? Mỗi tháng, gia đình anh phải nộp 12 Girid bạc. Những gia đình khác cũng nhiều như thế. Bọn anh không có tiền nếu những thương đoàn chưa tới. Vì thế anh Abat- anh lớn nhất, và anh Aiktim sau anh ấy phải thay phiên đi cả quãng đường dài để đến bán cá ở tận Cảng Teinuwrubiya.
Nhưng ở đấy người Otman cũng đặt cả thuế chỗ ngồi. Một ngày, cha anh quyết định bán người em nhỏ nhất của bọn anh, Almata, cho một đoàn vũ công. Họ mua em ấy chỉ bằng 2 Diras và 1 nửa Girid, thậm chí chưa bằng một con lạc đà khá! Sau đó hai người em gái khác của anh lần lượt bị bán cho các đoàn cầu mưa. Cha không bán ai cho lũ buôn nô lệ. Rồi đến Abrat và Amtaa, hai thằng nhỏ nhất.
Bọn anh thiếu người để trông lũ cá, nên chúng luôn bị bòn rút. Năm Musuiayatb đệ XI bị ám sát, người Najzakhs nổi dậy một trận lớn. Những tuyến đường buôn giữa Gumaunten và Teinu bị cắt đứt. Thuế bấy giờ là 1 Girid một trẻ con, và 1 Girid rưỡi cho người lớn. Một đêm, anh nghe mẹ nói với cha hãy để bà đi tìm những thương nhân. Mẹ bỏ đi ngay giữa đêm, và không bao giờ còn trở về. Bọn anh đã cố bán thật nhiều cá và dây chuyền vào năm sau. Cho đến lúc anh là người phải đi. Ngài Ab' qatharmunru đã trả giá anh 25 Diras, số tiền có thể mua cả gia đình anh. Ngài nói gia đình anh nên bắt một con tàu đến Ai Cập, ở đó họ có nhân tính hơn. Sau đó anh theo ngài Ab' qatharmunru(13), đến khi ngài bán lại anh cho ngài Mubarit và anh trở thành một vũ công.
Anh 28 tuổi, La'ahad. Bất cứ người đàn ông Arabiapan nào lúc này đã có một gia đình lớn. Anh không muốn gia đình anh sẽ phải chia sẻ bất cứ ai. Không, La'ahad. Cho đến khi anh có đủ Diras, như thế sẽ không có ai phải bị bán hoặc trở thành vũ công. Anh nợ nghề vũ công, ngài Ab' quatharmunru, đoàn Due' rahma, và gần nhất là hai anh em em. Em chỉ có một người anh, vì thế anh sẽ giúp em tìm ra cậu ta."
Giọng Amahr hạ thấp, nhưng mắt anh trông như một đêm sa mạc quang đãng. Anh đã đi nhiều nơi ở khắp đại mạc, và chắc chắn đáng được đề cao vì sự đáng tin. Đêm yên tĩnh ở dãy Hemfiq, không chỉ riêng La'ahad, mọi câu chuyện được nói trở nên trầm và vang như một bài thơ cổ. Có thể những người trong nhà đều nghe thấy. La'ahad lặp lại lần nữa lời cảm ơn, và lời thề đảm bảo an toàn cho những người đồng hành như lúc ở Athrayir. Cô bé nói rằng anh cô, Hira Tostearad, nên bị đấm vì tất cả.
-----
Chú thích:
1.Gươm Kata-sa (xem Chương 1- Phần phụ)
2. Bê tông La Mã: Người La Mã làm bê tông bằng cách trộn tro núi lửa với vôi và nước biển để làm vữa, và sau đó cho thêm các khối đá núi lửa vào khối vữa – được coi là "cốt liệu" trong bê tông. Sự kết hợp của tro, nước, và vôi làm tạo ra phản ứng có tên pozzolanic (phản ứng xảy khi vật liệu kết hợp với canxi hiđroxit thì tạo thành hợp chất có tính chất xi măng).
(Nguồn: https://trithucvn.net/khoa-hoc/tong-la-ma-co-ben-vuot-troi-cho-den-gio-khoa-hoc-moi-co-giai-thich.html)
3. Kajin (Hư cấu, từ Kanji): Chữ khối vuông của người Otman.
4. Cổng Raemlamat: Cổng chính của thành đô Gumaunten. (Xem Chương 1)
5. Hakhaos (Hư cấu, từ cụm "haris mukhalas Pharaoh" nghĩa là người bảo vệ trung thành của Phararaoh): Cấm quân thề phụng sự suốt đời cho Pharaoh Ai Cập.
6. Đậu đũa và nến sáp ong: Kinh Korad, luật dùng bữa cho những đôi tình nhân, đậu đũa có trong bữa ăn ám chỉ sự tán tỉnh của người đàn ông với người phụ nữ. Việc sử dụng nến sáp ong là một điểm mới bổ sung từ văn hóa châu Âu.
7. Venice: Venice là môt trong hai thủ phủ của vùng Veneto và của tỉnh Venezia ở Ý. Tiếng Latin, Venice có nghĩa là tình yêu. Vì vậy, nó được mệnh danh là thành phố tình yêu.
(Nguồn: https://.vietravel.com/vn/du-lich-bang-hinh-anh/venice-thanh-pho-lang-man-bac-nhat-nuoc-y-v904.aspx)
8. Alait (Hư cấu, từ cụm alaitijahat 'iilaa wahat almadi nghĩa là kẻ dẫn đường đến ốc đảo cuối cùng): Alait trong văn hóa Arabiapan là một vị thần trong lốt một con lạc đà khổng lồ. Alait được miêu tả có cái bướu đồ sộ như một quá núi. Mỗi linh hồn phải buộc mình vào mỗi sợi lông trên bướu. Sau khi người Otman xâm lược Arabiapan, truyền thuyết về con rồng Hi'mottauhitomonn (Xem Phần 1- Chương 2) du nhập, người bản địa thêm thắt chi tiết mỗi bước chân của con lạc đà Alait để lại một hố lửa lớn.
9. Aalkl (Hư cấu, từ cụm Yasai no shūkaku-sai/ mahrajan hisad alkhdrwat Aalkl nghĩa là Lễ hội thu hoạch rau củ nhỏ): Lễ hội quan trọng thứ Hai sau lễ hội thu hoạch lúa mạch đen. Lễ Aalkl chỉ diễn ra trong một đêm, cho phép người tham gia được phép mặc mọi loại trang phục sặc sỡ. Trang phục càng sặc sỡ càng thể hiện việc vụ mùa bội thu.
10. Samak (Hư cấu, từ cụm hariq saghir nghĩa là Đống lửa nhỏ): Từ để gọi nơi ở của người du mục tự do, Samak không phải một địa điểm cố định. Mọi nơi mà một nhóm người du mục ở trong thời gian ngắn cũng được gọi là Samak.
11. Haub: Vùng đầm lầy cát và cây rậm rạp ở phía Nam Arabiapan. Haub bị coi là vùng đất chết với cả người Arabiapan và người Otman.
12. Ho-reii (Hư cấu, từ Karada nghĩa là cơ thể): Thuế thân. Từ Ho trong tiếng Otman đứng trước một từ chỉ mối liên hệ đến thuế.
13. Ab' qatharmunru: Đoàn trưởng thương đoàn tập hợp từng đến làng Taqu. (xem Chương 1-Phần phụ).
Tên:
Abat: Hạt cát nhỏ bé.
Almata: Hạt mưa đầu tiên.
Aiktim: Giữa tháng ba.
Aquam: Trăng tròn
Alsayarat: Chiếc xe chở đầy cá.
Abrat: Cháo cá lớn.
Amtaa: Mưa nhỏ.
-"Ka maoom oocae de." (Hư cấu, dựa trên Kamaoom oocae de/ Thanks to the wealth of God): Nhờ ơn sự giàu có của đấng tối cao.
-Trong các quốc gia cổ đại phương Đông, Ai Cập là nước mà nô lệ được đối xử "mềm mỏng" nhất. Nô lệ Ai Cập được coi như một người dân, thay vì hàng hóa, và có thể tự chuộc thân bằng tiền của họ.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...