Liên tiếp vài ngày, nhóm La'ahad cặm cụi đào từng mạch đá của dãy Hemfiq. Họ thấy những viên ngọc đẹp, phần nhiều đá granit đen vụn và thạch anh thô lẫn trong đất tro màu vàng đen. Đất đá khô và dễ vụn hơn vào ban ngày. Nhưng không một viên Urim hoặc Thummim, không một viên, như thể chúng đã bốc hơi khỏi mặt đất. Những toán lính Parok(2) của Bashibaq vẫn tuần tra đều đặn và người ta tưới nước cho những mảnh ruộng ba lần một ngày, điều đó khiến nhóm lữ hành phải làm việc vào buổi chiều tối. Họ đào bới trong khi lẩn trốn những ánh mắt soi mói. Amahr và anh em Itraudra thay phiên tìm thức ăn. Có ít thằn lằn và sa giông, chủ yếu là lũ chuột cát- những kẻ đã trở nên liều lĩnh để ăn cắp hạt giống, trước khi chúng hoàn toàn nảy mầm. Họ có thể đặt bẫy chim mà không cần lo về luật cấm thứ 3(3) của người Otman. Nếu không có những viên đá tiên tri, số vàng giả của Yoal Layl vô dụng. Họ đã nghĩ nhiều cách để vượt qua sự kiểm tra của người Otman trong khi lao động cật lực.
Nhóm La'ahad đã di chuyển khỏi ốc đảo thứ 4 khoảng 7 dặm. Có quá ít nước trong lời chúc phúc của thần gió Sharqii(4). Cơn gió lục địa khô cuốn theo nhiều cát vụn và gợi nhớ đến mùi lá trà vàng vùng Baloc(5). Ngày thứ 62 của hành trình từ Lihal men theo dãy Hemfiq, trên một sườn núi dốc, những người đồng hành có thể nhìn thấy ốc đảo Ensaldam. Nó có vẻ đẹp của một viên ngọc lộng lẫy nhất trong chuỗi ngọc quý là những ốc đảo Bashibaq. Con hồ lớn Si'oset(6) xanh như màu mắt nàng Si'lat(7), và những loại cây bao quanh nó khiêm nhường cúi mình. Bọc quanh Ensaldam là hai vòng tường thành lớn, có những toán lính Parok đeo gươm nghiêm nghị canh gác. Hội đồng Majlas(8) của Ensaldam là nơi duy nhất cấp giấy thông hành cho bất kỳ thương đoàn vào Kinh đô. Nhóm La'ahad vẫn chưa có cách hợp lí để vào ốc đảo. Họ đã tìm kiếm những viên đá tiên tri trong 12 ngày. Ngày thứ 13, Jashar phát hiện nhiều vết chân còn mới trên lớp đất đá. Họ đang ở vị trí cao hơn bất kì nơi khai thác thông thường nào, vẫn không có gì ngoài đất đá đen vụn. Không khí ngột ngạt mùi trứng ung. Lửa đốt có màu đỏ và xanh lam vì đốt trên lớp đất có lưu huỳnh. Sự chán nản bào mòn tính tích cực của anh em Itraura, và Yoal Layl mất hứng với những phép thuật vô dụng, họ luôn trông kiệt sức và ngái ngủ.
Trời đêm sẫm màu, cái lạnh thấm qua tầng vải áo lữ hành. Amahr mở mắt, vì đến lúc thay phiên canh gác. Lửa đã tắt, anh nhìn quanh, thấy vị trí đáng lẽ La'ahad phải đang ngồi không có ai.
"La'ahad!"
Một cái giật thót trong bụng, ngay tiếp sau là cảm giác ớn lạnh dọc sống lưng, giống như lần đầu tiên nhảy qua vạc lửa hay gặp những tên cướp đường. Amahr đứng bật dậy và nhìn quanh dáo dác, âm thanh bị tắt ở cổ họng. Anh nhìn thấy một mũi tên vạch trên đá, ở vị trí dễ thấy, điều đó khiến lông mày vũ công cau chặt lại.
"Mọi người, dậy! Jashar, Dadru! La'ahad mất tích!"
"Yoal Layl, dậy!"
Những người đồng hành vẫn còn ngái ngủ. Anh em bản địa theo phản xạ vớ lấy viên đá gần nhất gần như lập tức. Vẫn mụ mị nhưng tư thế sẵn sàng tự vệ quyết liệt trước một cuộc phục kích. Họ không thể nói nhiều vì tiếng động trên núi luôn vọng lớn. Và bước đi trên lớp đá vụn vào ban đêm còn nguy hiểm hơn nữa.
Mũi tên chỉ chếch lên trên nữa của sườn núi. Amahr chắc chắn La'ahad đã lần theo những dấu chân. Cô bé giỏi ẩn nấp, chỉ bị phát hiện nếu cô cố ý. La'ahad là một cô gái bản địa dễ lẫn bên cạnh đống đá. Những người đồng hành giấu hành lý xuống hố tro. Bốn người đàn ông giữ mép tấm thảm bay, lần theo hướng chỉ của mũi tên.
"Tốt hơn cô ấy nên có lý do cho việc bỏ đi. Tôi dám chắc bên trên cao đấy không có Urim hay Thummim. Và chẳng ai có thể sống trong thứ mùi H2S nồng này!"
Yoal Layl cáu bẳn, anh ta vừa bị sượt chân. Tiếng đá lăn xuống sườn dốc như tiếng thì thầm của lũ quỷ núi. Những người bản địa im lặng. Bên trên đỉnh núi có hình võng trũng do Hemfiq là một dãy những ngọn núi lửa nguội. Họ tìm thấy cô gái nhỏ ngồi bên rìa vách đá. Cô cũng thấy họ và vẫy tay ra hiệu. Gió trên cao mạnh, lần đầu tiên sau nhiều ngày gió chở theo mùi của sự sống. Cả bốn người ngửi thấy mùi bánh mì nướng phảng phất trong gió. Theo hướng tay La'ahad chỉ, nơi giữa vùng lõm dốc đá, có một căn nhà đắp bằng đất có mái rơm dày chưa từng thấy ở Arabiapan.
----
- Urim và Thummim (Ánh sáng và sự hoàn hảo): Xem chú thích phần 2-Chương 4
1. Đá Granit (Đá hoa cương): Granit là đá xâm nhập được hình thành từ macma.
2. Lính Parok (Dựa trên Ikko Ikki và từ Patorouru nghĩa là tuần tra): Quân trinh sát và tuần tra trên bộ. Parok là đội quân bán chính quy của vùng tự trị Bashibaq. Lính Parok chủ yếu là người Otman, có thể gồm người ngoài tộc đã làm lễ tẩy trần theo quy định của đạo Chishamga. Xuất thân của lính Parok có thể là nông dân, thương nhân, hoặc con cháu lãnh chúa. Họ được tổ chức thành một nhóm từ 12-24 người, với một chỉ huy gọi là Samum.
3. Luật cấm thứ 3: Cấm bắt, săn bắn chim. (Trừ trường hợp đặc biệt)
4. Thần gió Sharqii (Dựa trên cụm shamalii sharqii nghĩa là gió Đông Bắc): Thần Sharpii là vị thần của cơn gió Đông Bắc, anh em của thần gió Tây Nam (hay gió Đại dương) Janulg. Gió Sharpii còn được gọi là gió Lục địa vì phần lớn di chuyển qua vùng lục địa. Tính chất của gió Đông Bắc là lạnh và khô, hoạt động vào tháng 11-4.
5. Baloc (Dựa trên Balochistan): Baloc là một trong những thành phố lớn của Đế quốc Othalia, nằm ở phía Tây Nam dãy núi Sulaiman Range. Vùng Baloc nổi tiếng với loại trà ngọt đắt đỏ, loại thu hoạch tốt nhất vào lúc cuống lá ngả sắc vàng.
5. Hồ Si'oset (Dựa trên Si'lat và từ Hoseki nghĩa là viên ngọc quý): Hồ lớn thuộc ốc đảo Ensaldam và là hồ tự nhiên lớn nhất trong những ốc đảo Bashibaq.
6. Nàng Si'lat: Si'lat là loài Djinn giống như nhân mã. Nó là một chuyên gia bắt chước ngoại hình và được cho là thông minh nhất trong số Djinn. Si'lat thường xuất hiện như những người phụ nữ xinh đẹp. Chúng có xu hướng sống trong rừng và ốc đảo sa mạc, nhưng chúng có suy nghĩ thoáng hơn về con người so với các loại Djinn khác và có thể dễ dàng hòa nhập với xã hội loài người.
7. H2S (Hydro sulfua): Hydro sulfua là hợp chất khí ở điều kiện nhiệt độ thường, không màu, mùi trứng thối. Trong tự nhiên H2S có trong một số nước suối, trong khí núi lửa. (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hydro_sulfua)
8. Lưu huỳnh(S): Lưu huỳnh là một chất rắn xốp màu vàng nhạt. Nó cháy với ngọn lửa màu xanh lam và tỏa ra Lưu huỳnh Đioxit (SO2), với mùi ngột ngạt dị thường. Lưu huỳnh có thể tìm thấy ở gần các suối nước nóng và các khu vực núi lửa tại nhiều nơi trên thế giới. Lưu huỳnh không mùi, nhưng thường bị nhầm có mùi trứng ung (của H2S).
Lưu huỳnh còn được biết tới là Brimstone.Trong bài thuyết giáo 'Fire and brimstone', trong đó địa ngục và sự quở trách của Thượng đế đối với những kẻ có tội được nhấn mạnh. Kinh Thánh cho rằng địa ngục có mùi của lưu huỳnh. (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u_hu%E1%BB%B3nh)
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...