Vào buổi chiều nhập nhoạng, những người trong đoàn buôn nô lệ trông thấy một cái bóng trắng duy nhất trên gò cát. Nhìn từ xa, nó giống một con linh dương Olreu báo điềm tốt. Những nô lệ bản địa cúi đầu, lần đầu tiên sau nhiều ngày đôi môi khô nứt của họ hé mở để lầm rầm những lời tạ ơn vị thần sa mạc. Cô gái nhỏ thấy hai người dò đường quay lại. Họ chạy rất nhanh, cát xới tung thành khoảng hỗn loạn sau mỗi bước chân. Họ tụ tập ở đầu hàng để báo lại những gì tìm thấy. Samahunda phải cúi thấp đầu để nghe thì thầm. Sau một khoảng thời gian ngắn, người Otman ngồi trên con lạc đà cao yên lặng, quên chỉnh cái mũ Saa bị lệch. Một cái phẩy tay bất ngờ dứt khoát ra lệnh cả đoàn đi tiếp. Điều gì đó khiến lũ giám toán hiểu chúng sẽ không vung roi, không la hét bằng thứ giọng Otman lai. Chúng nắm chặt roi gân bò gạt gấp về trước như thúc ép tất cả phải đi nhanh. Đoàn người nô lệ thấy chúng bớt vẻ hung dữ. Điều gì đó lan tỏa bên trong sự im lặng của đám đông.
Người đàn bà da trắng gần đầu hàng bị vấp. Cô ta ngã dúi khiến vòng dây thừng quanh cổ bị siết căng, kéo ật hai người đằng trước và dây trói quặt tay kéo dúi đầu người đằng sau. Nhưng họ im lặng, những tay giám toán kiên nhẫn. Sợi dây thừng kéo căng run rẩy bởi sự sợ hãi của những nô lệ. Họ đều biết cái ớn lạnh lan dọc sống lưng không phải vì những chiếc roi gân bò, hay màn đêm sắp buông xuống. Đôi mắt họ cắm xuống mặt cát lấm tấm những vụn cát màu đỏ sậm bị gió Tây Nam ném rải rác. Amahr lặng lẽ nhích từng chút mỗi bước thu ngắn khoảng cách với La'ahad. Cô gái nhỏ kín đáo quan sát gò cát. Họ đều ngửi thấy mùi tanh. Thứ mùi không giống bất cứ điều gì từng có trong cuộc hành trình qua những vùng đất nguy hiểm nhất của Lihal. Không hà khắc hay độc ác, hay mang mùi của những lưỡi gươm Scimitar tuốt trần. Thứ mùi tanh buồn bã và chết chóc báo hiệu một sự hiện diện kinh khủng.
Những người nô lệ đi đủ gần để biết thứ họ đã thấy không phải một con linh dương Olreu. Màu trắng hiếm hoi họ thấy trên dải cát vụn tối màu là màu vải của một loại áo choàng kì lạ, trông giống như một cái áo lữ hành thông thường nhưng mỏng hơn và có tay áo. Nó đương khoác trên lưng một người đàn ông trẻ, người mặc một bộ Kimot của dân Otman còn khá mới. Đôi tay anh ta nhuộm đỏ máu của con lạc đà già gầy khô đã chết vì bị mổ bụng nằm vật trên cát. Và đôi bàn tay trần bưng một viên đá nhẵn cũng nhuốm màu nâu đỏ.
"Một viên Bezoar. Nó chỉ là chất xơ mắc trong dạ dày của một con vật. Sau đó canxi và magie phosphat bám lấy nó thành từng lớp, giống như ngọc trai vậy. Độ dày của Bezoar thể hiện tuổi của con vật nuôi nó, vì thế nó hiếm và đắt. Nhưng tôi chắc rằng, trong trường hợp này việc đổi một viên Bezoar đây lấy một chuyến đi tuyệt vời cùng các vị là sự lựa chọn phải lẽ."
Giọng của người đàn ông bình thản và tầm thường. Không ai đáp lại anh ta. Samahunda vẫn thúc con ngựa của lão đi tiếp. Những bàn chân nô lệ rách bươm bước nhanh hơn. Những người đi trên hoang mạc đều biết rằng thời điểm tối nhất của một ngày không phải là nửa đêm mà là lúc trời nhập nhoạng. Nó đủ sáng để không cần đốt một đống lửa và đủ tối để người lữ hành mỏi mệt trở lại chỗ nghỉ chân sau chuyến đi gom củi của anh ta. Khi trái tim con người đã rệu rã vì cảnh giác buông lỏng, đó là lúc lũ quỷ thần sẽ xuất hiện. Tay thủ lĩnh người Otman có đôi mắt của một con diều hâu khi gã nhìn dè chừng người lữ hành. Bất cứ điều gì bình thường không tạo nên màu xanh lam và tím, màu tóc gáy kẻ lạ mặt mà bất cứ một người nô lệ nào còn đủ dũng cảm để nhìn thấy.
Hãy cẩn thận Marid, lão xuất hiện dưới lốt một kẻ cô độc.
Đừng lấy tài sản của ma quỷ, nhớ lấy Isbaalhe. Con hãy cứ im lặng thành kính đi qua.*
"Tôi là một khách du lịch vừa rời khỏi Gumaunten. Ở đó họ cấm kinh quá. Họ chỉ cho người Otman và người giàu có thuộc kinh Korad vào. Tôi thì không phải một người giàu có biết kinh Korad. Một người bạn rất tốt đã nói với tôi rằng tôi phải đến Những ốc đảo chà là để xin giấy thông hành. Nhưng tôi bị lạc đường giữa chừng. Này! Ông không thể bỏ một khác du lịch lạc đường trên sa mạc một mình được!"
Những con ngựa Equus không đi tiếp. Chúng giậm chân, quay đầu sốt ruột và lồng vó trước khi bị chủ cưỡi kẹp chặt chân vào bụng. Đoàn buôn nô lệ phải dừng lại, vừa đúng người da đen cuối hàng đứng ngang bằng kẻ lữ hành kì lạ, và cách gã bốn thân ngựa trưởng thành. Những người bảo vệ lữ đoàn tuốt gươm bao vây gã đàn ông, kẻ vẫn đang ngồi trên gò cát với đôi bàn tay giữ viên Bezoar nhìn đoàn buôn nô lệ trông đợi một cái gật đầu cho chuyến đi nhờ. Những lưỡi gươm Kata-sa rung liên tục khi chúng đến gần anh ta. Những kẻ bao vây nuốt nước bọt, cảm thấy đầu lưỡi đao của họ nặng trì xuống cát.
Cô gái nhỏ thấy một người đàn ông ngồi khoanh chân trên gò cát, kẻ khoác một chiếc áo choàng lạ và đôi bàn tay buông thõng trước hai gióng chân giữ viên đá tròn. Một tư thể ngồi quen thuộc.
Samahunda kéo cương để con ngựa quay đầu lại. Bộ râu rậm hung tợn chiếm phần lớn khuôn mặt, nửa phần trên bị chiếc mũ Saa hơi sụp khuất gần hết. Giữa một khe hẹp của bộ râu và vành mũ hé ra một đôi mắt sắc bén lạnh ngắt.
"Ngươi muốn gì, hả người lạ?"
"Ồ, cuối cùng ông đã nghe thấy. Tôi đã rất hi vọng một người nào đó trong các vị biết tiếng Arabiapan. Như ông thấy đây, tôi chỉ có một mình và bị lạc. Tôi muốn hỏi đây là chỗ nào, cách Gumaunten bao xa?"
"Lihal. Khoảng hai trăm rưỡi dặm phía Bắc Kinh đô."
"Các người đang đi đến đâu? Cho tôi đi cùng được không?"
"Nếu ngươi chịu trở thành một nô lệ thì được."
"Trở thành nô lệ? Các người đang đến Gumaunten à? Vậy không được rồi, tôi vừa ở kinh đô đây, họ vừa cấm cả những người buôn nô lệ vào thành vì cái tay bịp bợm gì đó bị truy nã gắt lắm."
"Nếu ngươi từng ở Gumaunten, ngươi phải biết chúng ta vẫn sẽ bán nô lệ ở chợ ngoài."
"Tôi thấy cách họ đối xử với nô lệ rồi, không tốt! Ông đến Gumaunten, còn tôi bị buộc rời khỏi đó để đến Những ốc đảo chà là, quay lại nữa thì cực quá! Hay thế này, ông bán cho tôi một nô lệ thôi cũng được. Đằng nào ông chẳng bán. Tôi muốn một nô lệ biết đường sẽ đi cùng tôi đến Bashibaq. Tôi có thể đổi cho ông khối Bezoar này, chắc chắn đắt hơn một nô lệ. Chúng ta đều có lợi phải không?"
Samahunda bình tĩnh nói chuyện với một sự nham hiểm của hoang mạc. Im lặng nghe tin tức rằng chuyến hành trình của lão là vô ích. Rõ là lão không thể bán nô lệ giá cao cho những tay bản địa khôn lỏi ở khu chợ ngoài thành Gumaunten. Người lữ hành kì lạ chờ đợi. Đôi mắt xám của gã Otman cân nhắc, nhìn những người bảo vệ đoàn đang quằn quại trên cát. Họ bưng mặt, siết lấy cổ họng và cào cấu ngực vì khó thở. Toàn bộ 20 người bao vây. Gã Marid của Lihal muốn một nô lệ hiến tế.
"Thưa trưởng đoàn, chúng tôi sẽ đi cùng người này!"
Cô gái nhỏ nói to và rõ. Rất nhiều cái đầu đằng trước cô quay lại, vì thế sợi dây thừng dài nối cổ tay họ với nhau bị kéo căng. La'ahad chớp cơ hội khi tay buôn nô chưa ra quyết định. Những người đồng hành của cô nhíu chặt mày. Trong đoàn người nghe rõ những tiếng thở ra nhẹ của người da trắng và còn nhiều hơn thế. Cô ra hiệu để gã giám toán đứng gần đấy đi tới, thì thầm rất nhỏ. Gã này do dự, đánh bạo chạy tới thủ lĩnh đang nhìn chằm chằm ở đầu hàng. Bước chân của gã lập cập làm cát tung toé và phải mất vài lần bước hụt mới đến được chỗ Samahunda.
"Cô La'ahad, nếu cô nhớ ta đã hứa gì với ngài Mubarit. Cô nên biết mình đang nói gì."
"Tôi nghĩ chúng ta nên cân nhắc điều người lữ hành này nói, thưa ngài. Người này nói Gumaunten đã không còn chào đón những người nô lệ. Chúng tôi sẽ đến Bashibad xin giấy thông hành cùng ông đây. Nếu ngài gặp ngài Mubarid, ngài có thể nhắn lại ngài ấy rằng điều đây do tôi đề nghị. Ông ấy sẽ rất vui lòng và cảm tạ lòng chân thành của ngài, ngài Samahunda."
Amahr kiên nhẫn và đứng thẳng lưng hơn, đôi bàn tay siết chặt gọi về sự can đảm. Jashar phải giữ Dadru để người em có thể đứng vững được, họ lo ngại quay đầu nhưng không nhìn thấy La'ahad ở khuất tận sau đoàn người. Vòng cung người nô lệ đứng trước và sau cô gái nhỏ dạt lùi, họ va vào hàng những người đàn ông. Kẻ lữ hành kì lạ đang đứng cạnh La'ahad, ở khoảng cách đủ gần để bất cứ ai có thể ngửi thấy mùi máu trên tay gã mà không cần một cơn gió Đại dương. La'ahad nhìn thẳng vào đôi mắt xanh, ra hiệu cho Amahr phải bình tĩnh.
"Điều gì khiến một cô gái Arabiapan đây bỏ qua điều răn của kinh Korad, quyết định đi theo một người đàn ông lạ mặt? Cô có phải một nô lệ tuyệt vọng phản bội Hiền triết vĩ đại không? Tôi có nên tin một kẻ phản bội không? Và điều đầu tiên, cô có phải là một hạt cát nhỏ bé dưới bàn chân thần Saidanja không?"
"Đấng tối cao luôn dạy chúng tôi phải giúp đỡ những người gặp nạn. Điều răn đó cao hơn hết thảy. Ở đây, tôi thấy một người khách du lịch đơn độc với một con lạc đà đã chết."
Người lữ hành nở nụ cười. Cô gái nhỏ đứng đủ gần để có thể nhìn kĩ trong ánh sáng nhập nhoạng cuối cùng của ngày. Đó là một người ngoại quốc cô chưa từng gặp. Nụ cười của anh ta hiền lành.
----
-Linh dương Olreu (Oryx leucoryx): Là một loài động vật thuộc chi Oryx, họ Trâu bò. Loài linh dương này có một cái bướu khá kỳ lạ trên lưng, cặp sừng dài và thẳng cộng với một cái đuôi ngắn có búi lông ở cuối. Olreu là cách gọi linh dương Oryx của người Arabiapan. Người bản địa tin rằng linh dương Olreu là một trong những sứ giả của thần Sharal'. Linh dương hiếm thấy xuất hiện ở hoang mạc, nhưng nơi có một con linh dương lớn thì có nước, vì vậy nó được biết là loài vật báo điềm may.
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Linh_d%C6%B0%C6%A1ng_s%E1%BB%ABng_th%E1%BA%B3ng_%E1%BA%A2_R%E1%BA%ADp)
-Bezoar: Bezoar là sỏi trong dạ dày các động vật như hươu, linh dương, nhím, dê, bò đực, lạc đà không bướu, hình thành từ những viên đá nhỏ hoặc chất xơ bị mắc kẹt trong đường tiêu hóa. Cách hình thành của nó tương tự ngọc trai. Bezoar có giá trị vì chúng được cho là có sức mạnh của thuốc giải độc vạn năng chống lại bất kỳ chất độc nào. Truyền thống cho rằng một ly uống nước có chứa bezoar sẽ vô hiệu hóa bất kỳ chất độc nào đổ vào nó. Từ "bezoar" xuất phát từ tiếng Ba Tư (pād-zahr) có nghĩa đen là "thuốc giải độc". Từ thời cổ đại tới thế kỷ 16, bezoar là vật thể giá trị thường được giới quý tộc dùng làm trang sức hoặc mài lấy bột chữa bệnh. (Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Bezoar)
-Mũ Saa (Hư cấu, dựa trên nón Sandogasa và từ Kontena nghĩa là Đồ để đựng): Một loại mũ rơm có hình vòm trũng. Mũ Saa phổ biến giữa tất cả mọi người từ nông dân đến trinh sát sa mạc và giúp che chở người đội khỏi sức nóng dữ dội của mặt trời. Che mắt khỏi ánh sáng chói và cũng có công dụng nhỏ trong chiến đấu. Mũ Saa có gốc từ "Kotena" nghĩa là đồ để đựng, bắt nguồn từ việc người Otman trưng dụng nó để đựng thực phẩm vừa thu hái, và đôi khi là hứng nước.
-Gươm Scimitar: Là một loại gươm lưỡi cong có nguồn gốc từ Trung Đông. Gươm Scimitar đã lan rộng khắp Trung Đông từ ít nhất là thời kỳ Ottoman. Scimitars được sử dụng trong chiến tranh ngựa vì trọng lượng tương đối nhẹ khi so với thanh kiếm lớn hơn và thiết kế cong của chúng, tốt cho việc chém đối thủ khi cưỡi ngựa. Thiết kế cong cho phép người sử dụng chém kẻ thù và tiếp tục cưỡi mà không bị mắc kẹt như đâm bằng kiếm thẳng trên lưng ngựa (Nguồn: https://en.m.wikipedia.org/wiki/Scimitar)
-Ngựa Equus (Ngựa Ả rập): Xem chú thích phần Trang trắng 3.
-Những ốc đảo chà là (Hư cấu, còn được biết tới là Những ốc đảo Bashibaq): Một dải dài rải rác những ốc đảo nằm dưới chân dãy núi Hemfiq, phía Tây Arabiapan. Bashibaq là nơi ở của một phần người Otman và người bản địa phục vụ cho họ. Nó được biết tới là điểm dừng chân đầu tiên của thương nhân ngoại quốc cập cảng Tây Teinuwrubiya (Trước khi cảng này bị người Najzakhs chiếm giữ) trong tuyến đến thành đô Gumaunten. Những ốc đảo Bashibaq là nơi cung cấp hàng hóa như lúa mì, dừa, cà-phê, chà là, gai dầu, lá Khát,.... đôi khi là lưu huỳnh hàng năm cho Kinh đô.
-Marid: một vị thần lâu đời và hùng mạnh nhất của Trung Đông. Đôi khi người ta bắt gặp ngài lang thang trên sa mạc trong lốt một ông già. Người Ả rập có câu truyền miệng: "Hãy cảnh giác với bất kỳ ai đi một mình trên sa mạc".
*Lời khuyên của nhà thông thái núi Hemfiq dặn Isbaalhe cách vượt qua sa mạc để tìm con lạc đà Samal.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...