Sa mạc Ả Rập, tháng Chín năm 622
Người đàn ông cho lạc đà phi nước đại trong đêm đen. Anh đang chạy trốn về phía Medina, lạc đà chạy hết sức đến sùi bọt mép, và đêm nay sẽ được gọi là Hégire [[34]], đánh dấu thời điểm bắt đầu lịch của người Hồi giáo.
Anh trốn khỏi ốc đảo Bakka, nơi anh sinh ra trong bộ tộc danh giá của người Quraysh. Anh trốn chạy vì người Quraysh tự xưng là con của Abraham, nhưng lại tôn thờ những viên đá thiêng.
Tại nơi dừng chân ở giữa sa mạc này, từ thời xa xưa đã có một cộng đồng người Do Thái sinh sống. Đứng đầu cộng đồng đó là một giáo trưởng uyên bác, nhiệt thành, mơ ước dẫn dắt toàn bộ Ả Rập đến với đạo Do Thái thông qua truyền thống giáo trưởng của mình. Chàng thanh niên Ả Rập đã bị con người cuồng nhiệt này quyến rũ: anh trở thành học trò của ông và lặng lẽ cải đạo.
Nhưng giáo trưởng của anh đòi hỏi nhiều hơn thế. Những người Quraysh kiêu ngạo bác bỏ lời thuyết giáo của một người Do Thái: biết đâu họ sẽ nghe theo anh, một người Ả Rập cùng bộ tộc với họ? Chẳng phải là anh vẫn không mang dòng máu Do Thái đó sao? Điều ông dạy anh mỗi ngày, ông muốn anh nhắc lại ở các nơi trong ốc đảo. “Hãy nói với họ,” ông không ngừng nhắc lại với anh… Để không bỏ sót bất kì điều gì đã nghe được, Muhammad ghi chép lại, và các ghi chép ngày càng nhiều lên. Bằng tiếng Ả Rập, vì giáo trưởng hiểu rằng phải nói chuyện với những người này bằng ngôn ngữ của họ, chứ không phải bằng tiếng Hê brơ.
Đối với những người Quraysh, thế là quá lắm: một người của họ, Muhammad, lại đang tìm cách phá bỏ nghi lễ thờ đá thiêng, nguồn gốc sự giàu có của họ! Cùng lắm thì họ chỉ có thể dung thứ nếu anh trở thành người Nazareth: những người ly khai khỏi đạo Cơ Đốc này đã đến đây từ nhiều thế kỷ nay, và nhà truyền giáo Jesus của họ không nguy hiểm. Cùng với những lời giảng dạy của giáo trưởng, chàng trai Ả Rập sẵn lòng nghe lời giảng dậy của họ: bị Jesus lôi cuốn, có lẽ Muhammad sẽ muốn sáp lại gần họ. Nhưng những người Quraysh không để anh có thời gian, và họ xua đuổi anh.
Giờ đây, anh trốn chạy về phía Medina: toàn bộ hành lý của anh chỉ bao gồm những ghi chép quý báu. Những điều mà anh ghi lại ngày này qua ngày khác, theo lời giáo trưởng của anh: hãy nói với họ…
Ở Medina, anh trở thành một dũng tướng. Thành công tích tụ, anh mở rộng quyền lực của mình ra cả một vùng và trở thành thủ lĩnh chính trị được tôn trọng. Phải có những điều luật để tổ chức những người đi theo anh: anh ban bố luật, sau đó viết chúng ra, và những văn tự này dần cộng thêm vào các ghi chép trước kia của anh. Đôi khi anh cũng ghi lại những việc linh tinh, một vài câu chuyện kể về các trận đánh của mình. Những ghi chép của anh tạo thành một cuốn sổ đi đường lớn.
Khi anh muốn tập hợp những người Do Thái dưới trướng của mình, họ từ chối thẳng thừng: anh tức giận xua đuổi họ ra khỏi thành phố và quay về với những người Cơ Đốc ở phương Bắc. Được, những người này sẽ sẵn sàng giúp anh trong các cuộc chinh phục, tuy nhiên với một điều kiện: anh phải trở thành người Cơ Đốc, và thừa nhận thiên chất của Jesus. Muhammad nguyền rủa họ, và căm thù họ khôn nguôi như đối với những người Do Thái.
Chỉ có những người Nazareth là được ưu ái trong mắt anh. Và trong sổ của mình, anh viết những lời ca ngợi họ và nhà truyền giáo Jesus của họ.
Khi trở về Bakka với tư cách người chiến thắng, Muhammad dùng kiếm quét sạch những viên đá thiêng của những người tôn sùng chúng. Nhưng ông dừng lại trước hình Jesus và mẹ Người, vốn được người Nazareth sùng kính từ lâu. Ông tra kiếm vào vỏ và cúi người thật thấp.
Sau đó, cái tên Bakka có thay đổi chút ít, như đã diễn ra, và ốc đảo này được biết đến ở mọi nơi dưới tên gọi Mekka.
Mecca.
Hai thế hệ sau, vua Thổ Nhĩ Kỳ là Othman sưu tập lại cuốn sổ đi đường của Muhammad, và gọi nó là Coran, tuyên bố rằng nó được Muhammad viết ra theo lời đọc trực tiếp của Chúa. Từ đó trở đi, không ai được nghi ngờ về bản chất thần thánh của kinh Coran, nếu còn muốn sống.
Đạo Hồi chưa bao giờ có tông đồ thứ mười ba.
Truyện đánh dấu
Nhấn để xem...Truyện đang đọc
Nhấn để xem...